Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 22/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện M mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 29/2020/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 02 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hồ Nguyệt S, sinh năm 1987; Địa chỉ: ấp A, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Anh Võ Hoàng T, sinh năm 1983; Địa chỉ: ấp A, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trần Thị Kiều O, sinh 1988;

Đa chỉ: ấp C, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

(Chị S có mặt, anh T vắng mặt, chị O có đơn xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/02/2020, bản tự khai cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Hồ Nguyệt S trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Võ Hoàng T kết hôn năm 2010, đến năm 2011 anh chị đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre. Hôn nhân do tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống tại nhà chồng, địa chỉ ấp A, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre, vợ chồng cùng nhau làm ăn chăm lo phát triển kinh tế gia đình. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2018, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị phát hiện anh T có quan hệ với người phụ nữ khác, khi đi làm về anh T ít nói chuyện, không phụ chị chăm sóc con cái. Do đó, vợ chồng đã ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng mạnh ai nấy sống. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T có với nhau 02 con chung tên Võ An K, sinh ngày 26/4/2011 và Võ Nguyễn Hoàng T, sinh ngày 28/7/2014. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu trực tiếp nuôi cháu Võ Nguyễn Hoàng T, còn cháu Võ An K chị yêu cầu để anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Chị thừa nhận trong thời kỳ hôn nhân chị và anh T có mượn của chị Trần Thị Kiều O số tiền 35.000.000 đồng, số nợ này chị không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Võ Hoàng T được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh T vắng mặt không lý do.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 25/02/2020, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị Kiều O trình bày:

Chị có mối quan hệ quen biết với vợ chồng chị Hồ Nguyệt S và anh Võ Hoàng T. Vào khoảng năm 2013, chị có cho vợ chồng anh T mượn số tiền 35.000.000 đồng, mục đích mượn tiền để vợ chồng anh T mua chiếc xe máy 24.000.000 đồng và đóng tiền hụi với số tiền 11.000.000 đồng. Chị cho mượn chứ không lấy lãi, thời hạn mượn là chừng nào có tiền thì trả, không thời hạn. Khi mượn tiền, các bên không có làm biên nhận chỉ nói miệng. Từ ngày mượn tiền đến nay, vợ chồng anh T chưa trả tiền cho chị. Nay chị được biết chị S khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh T, với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án chị có ý kiến như sau: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh T và chị S trả số tiền 35.000.000 đồng trong vụ án này, giữa chị với anh T và chị S tự thỏa thuận. Trường hợp sau này có tranh chấp, chị sẽ khởi kiện trong một vụ án khác. Việc không khởi kiện trong vụ án này là sự tự nguyện của chị.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị S đối với bị đơn anh T, cụ thể:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị S được ly hôn với anh T.

- Về con chung: Sau khi ly hôn, chị S được quyền trực tiếp nuôi cháu Võ Nguyễn Hoàng T, sinh ngày 28/7/2014, còn cháuVõ An K, sinh ngày 26/4/2011 sẽ do anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Chị S, anh T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

- Về tài sản chung: Chị S khai không có nên không xem xét.

- Về nợ chung: Chị S, anh T và chị O không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự và phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Hồ Nguyệt S khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Võ Hoàng T, đồng thời yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung, ngoài ra chị S không có yêu cầu nào khác. Căn cứ đơn khởi kiện ngày 03/02/2020 cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại Điều 51 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị S khởi kiện yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con với anh T, đây là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Võ Hoàng T có nơi cư trú tại ấp A, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện M có thẩm quyền giải quyền giải quyết vụ án.

[3] Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không rõ lý do, chị O có đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt (BL 32). Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T và chị O.

Về nội dung:

[4] Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2011, chị S và anh T tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre. Việc đăng ký kết hôn giữa chị S và anh T là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc, đã tuân thủ đúng theo quy định tại Điều 9 và Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Tại đơn khởi kiện ngày 03/02/2020 (BL 05) và Biên bản lấy lời khai ngày 25/02/2020 (BL 23-25), chị S trình bày hiện nay vợ chồng chung sống không hạnh phúc, không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau. Tại biên bản làm việc ngày 11/3/2020 với bà Huỳnh Thị X (mẹ đẻ chị S) cho biết như sau: “…Quá trình chung sống tôi thấy cháu T thường xuyên nhậu nhẹt, mỗi lần nhậu là quậy phá gia đình, con tôi buồn nên thường xuyên về nhà tôi ở với tôi vài ngày. Con tôi đi phụ bán cá ở chợ Y, còn T đi làm bên điện lực. Mới đây, con tôi phát hiện cháu T có quan hệ với người phụ nữ khác nên con tôi mới nộp đơn ly hôn với cháu T. Nay con tôi nộp đơn ly hôn thì tôi không có ý kiến, đề nghị Tòa xem xét chấp nhận yêu cầu ly hôn của con tôi…”. Đồng thời, tại biên bản làm việc ngày 11/3/2020 với ông Đoàn Văn D (cha đẻ anh T) cho biết như sau: “Quá trình chung sống, tôi thấy S và T không được thuận thảo, thường xuyên bất đồng quan điểm sống dẫn đến cãi vã…”. Bên cạnh đó, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án triệu tập anh T đến để hòa giải nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng giữa anh và chị S nhưng anh T không có mặt. Ngoài ra, Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và các tài liệu chứng cứ của chị S cho anh T nhưng anh T không có mặt cũng như không có ý kiến phản đối với yêu cầu ly hôn của chị S.Từ các tài liệu chứng cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị S và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị S theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là phù hợp.

[5] Về con chung: Chị S và anh T có với nhau 02 con chung tên Võ An K, sinh ngày 26/4/2011 và Võ Nguyễn Hoàng T, sinh ngày 28/7/2014. Hiện nay hai con chung đang do chị S trực tiếp nuôi dưỡng. Tuy nhiên, do hoàn cảnh kinh tế nên chị S yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu T, còn cháu K chị yêu cầu để anh T trực tiếp nuôi con. Tại biên bản hỏi ý kiến con chung ngày 05/3/2020 (BL 35), cháu K có nguyện vọng được sống chung với ông bà nội và anh T. Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Hội đồng xét xử xét thấy để con chung phát triển ổn định, toàn diện cần giao cháu Tcho chị S trực tiếp nuôi dưỡng, còn cháu K giao cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận sự tự nguyện chị S tạm thời không yêu cầu anh Sang cấp dưỡng nuôi con. Do anh T không có yêu cầu chị S cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. xét.

[6] Về tài sản chung: Chị S khai không có nên Hội đồng xét xử không xem [7] Về nợ chung: Chị S và chị O không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Trường hợp chị S, chị O và anh T có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: “Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn …”. Vì vậy, chị S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hồ Nguyệt S về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” đối với bị đơn anh Võ Hoàng T, cụ thể như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hồ Nguyệt S được ly hôn với anh Võ Hoàng T.

- Về con chung: Có 02 (hai) con chung tên Võ An K, sinh ngày 26/4/2011 và Võ Nguyễn Hoàng T, sinh ngày 28/7/2014. Sau khi ly hôn, chị Hồ Nguyệt S là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung tên Võ Nguyễn Hoàng T, sinh ngày 28/7/2014; anh Võ Hoàng T là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung tên Võ An K, sinh ngày 26/4/2011 (phù hợp với nguyện vọng của con). Ghi nhận sự tự nguyện của chị Hồ Nguyệt S tạm thời không yêu cầu anh Võ Hoàng T cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, chị Hồ Nguyệt S và anh Võ Hoàng T có quyền thăm, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Hồ Nguyệt S khai không có nên không xem xét.

- Về nợ chung: Chị Hồ Nguyệt S và chị Trần Thị Kiều O không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

2. Án phí: Chị Hồ Nguyệt S phải chịu số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0008234 ngày 04/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bến Tre (đã nộp xong).

Chị Hồ Nguyệt S được nhận lại số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0008235 ngày 04/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bến Tre.

3. Chị Hồ Nguyệt S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Võ Hoàng T và chị Trần Thị Kiều O có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

4. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:22/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;