Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 26/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 22/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 157/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thúy V, sinh năm 1994.

Đa chỉ: Tổ 23, Ấp 3, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Kiều Thanh T, sinh năm 1981.

Đa chỉ: Tổ 23, Ấp 3, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 11 tháng 8 năm 2020, bản tự khai ngày 14 tháng 10 năm 2020, quá trình giải quyết vụ án, bà Lê Thị Thúy V trình bày:

Bà Lê Thị Thúy V và ông Kiều Thanh T tự nguyện tìm hiểu nhau, được cha mẹ hai bên đồng ý, sống chung với nhau từ năm 2015 và đăng ký kết hôn ngày 24/12/2015 tại Ủy ban nhân dân xã Lạc An, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Sau khi kết hôn, thời gian đầu giữa bà V và ông T chung sống hạnh phúc sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, không tìm được tiếng nói chung, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và không tôn trọng lẫn nhau. Từ tháng 5/2020, bà V và ông T không còn sống chung với nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng mâu thuẫn đã trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống nên bà V yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Thúy V yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Kiều Thanh T.

Về con chung: Bà Lê Thị Thúy V và ông Kiều Thanh T có 01 con chung tên Kiều Minh T1, sinh ngày 11/01/2017. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn, bà Lê Thị Thúy V yêu cầu Tòa án giao con chung cho bà V được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và yêu cầu ông Kiều Thanh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con số tiền 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị Thúy V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 14 tháng 10 năm 2020, quá trình giải quyết vụ án, ông Kiều Thanh T trình bày:

Ông Kiều Thanh T thống nhất với phần trình bày của bà Lê Thị Thúy V về thời gian tìm hiểu, thời gian chung sống. Sau khi kết hôn, ông T và bà V chung sống hạnh phúc, sau đó vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Hiện tại, giữa ông T và bà V không còn sống chung với nhau, giữa hai người không có biện pháp để hàn gắn tình cảm. Ông T xác định vẫn còn tình cảm với bà V nên trước yêu cầu xin ly hôn của bà V thì ông T không đồng ý.

Về con chung: Ông Kiều Thanh T và bà Lê Thị Thúy V có 01 con chung tên Kiều Minh T1, sinh ngày 11/01/2017. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn, ông T yêu cầu Tòa án giao con chung cho ông được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và ông không yêu cầu bà V cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông Kiều Thanh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa tuân theo đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Các đương sự chấp hành đúng quy định của Tòa án.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

Về tố tụng:

[1] Bà Lê Thị Thúy V có đơn yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con với ông Kiều Thanh T. Ông Kiều Thanh T đang cư trú tại Tổ 23, Ấp 3, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương theo quy định tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Tại phiên tòa, bà Lê Thị Thúy V và ông Kiều Thanh T có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.

Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Thúy V và ông Kiều Thanh T tự nguyện tìm hiểu, được cha mẹ hai bên đồng ý, tiến đến hôn nhân, sống chung với nhau từ 2015 và đăng ký kết hôn ngày 24/12/2015 tại Ủy ban nhân dân xã Lạc An, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, đây là hôn nhân hợp pháp.

[4] Bà Lê Thị Thúy V cho rằng thời gian đầu giữa bà và ông T chung sống với nhau hạnh phúc sau đó vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, hai người cũng không có biện pháp hàn gắn tình cảm. Ông T cũng thừa nhận quá trình chung sống giữa vợ chồng trong cuộc sống cũng có những mâu thuẫn nhất định nhưng ông vẫn còn tình cảm nên không đồng ý ly hôn với bà V. Tại biên bản xác minh ngày 04/11/2020 thể hiện giữa bà V và ông T phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, không còn quan tâm đến nhau và bà V không còn sống chung với ông T. Xét quan hệ hôn nhân phải được xây dựng trên tình yêu T1ơng, trách nhiệm, nghĩa vụ, sự quan tâm và chăm sóc lẫn nhau. Bà V và ông T không tìm ra được tiếng nói chung, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và giữa hai người không có biện pháp để hàn gắn tình cảm nên bà V yêu cầu ly hôn với ông T là có cơ sở, cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về con chung: Bà Lê Thị Thúy V và ông Kiều Thanh T có 01 con chung tên Kiều Minh T1, sinh ngày 11/01/2017. Bà Lê Thị Thúy V yêu cầu Tòa án giao con chung cho bà V được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và yêu cầu ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con số tiền 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi còn ông T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không yêu cầu bà V phải có nghĩa vụ cấp dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy cháu Kiều Minh T1 là nữ, còn nhỏ, đang sống chung với bà V, yêu cầu của bà V là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Ý kiến của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bà Lê Thị Thúy V phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật. Ông Kiều Thanh T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban T1ờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Thúy V đối với ông Kiều Thanh T về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Thúy V được ly hôn với ông Kiều Thanh T.

2. Về con chung: Giao con chung tên Kiều Minh T1, sinh ngày 11/01/2017 cho bà Lê Thị Thúy V được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Ông Kiều Minh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng)/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Bà Lê Thị Thúy V và ông Kiều Thanh T đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung, không ai được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể giải quyết việc thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi đương sự có đơn yêu cầu theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm:

Bà Lê Thị Thúy V phải chịu số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào số tiền đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0031128 ngày 28/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Ông Kiều Thanh T phải chịu số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 26/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:22/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;