Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 15/05/2020 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 22/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/05/2020 VỀ XIN LY HÔN 

Ngày 15 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng; xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 41/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2020 về tranh chấp: “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thiên V, sinh năm:1967 Địa chỉ: tổ X, thôn T, xã X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Bị đơn: Ông Hồ Ngọc A, sinh năm: 1968 Địa chỉ: Số M, thôn T, xã X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

(Bà V có mặt tại phiên Tòa, ông A có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Lê Thị Thiên V trình bày: Bà và ông Hồ Ngọc A xây dựng gia đình với nhau vào năm 1993, trên cơ sở tìm hiểu, tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Y, thành phố Đ. Sau khi cưới cuộc sống chung của vợ chồng không được hòa thuận, hạnh phúc, bà và ông A thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau nhiều lần. Nguyên nhân do ông A thường xuyên nhậu nhẹt, không lo làm ăn, không chăm lo cho cuộc sống chung của gia đình, không có trách nhiệm với vợ con. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gay gắt nên năm 2009 bà và ông A đã sống ly thân nhau. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng với ông A không còn nữa nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Hồ Ngọc A. Về con chung, bà và ông A có 03 con chung là Hồ Lê Thiên T, sinh năm 1995; Hồ Ngọc C, sinh năm: 1996 và Hồ Lê Thiên A, sinh ngày 30/12/2009. Khi ly hôn cháu T, cháu C đã đủ tuổi trưởng thành và phát triển bình thường nên bà không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Đối với cháu Hồ Lê Thiên A còn nhỏ nên bà có nguyện vọng được nuôi cháu A, không yêu cầu ông A phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung, bà Vân xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Bị đơn ông Hồ Ngọc A trình bày: Ông và bà V lấy nhau tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Y, thành phố Đ. Cuộc sống chung của vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông bị bệnh nên cuộc sống chung của vợ chồng không hòa hợp được, thường xuyên xảy ra cãi nhau. Từ năm 2009 cho đến nay vợ chồng ông đã sống ly thân nhau. Nay bà V yêu cầu ly hôn thì ông cũng đồng ý. Về con chung, ông và bà V có 03 con chung là Hồ Lê Thiên T, sinh năm 1995; Hồ Ngọc C, sinh năm: 1996 và Hồ Lê Thiên A, sinh ngày 30/12/2009. Khi ly hôn ông đồng ý giao con cho bà V nuôi dưỡng, ông không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung, ông A xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng ông A có đơn xin giải quyết vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, bà V xác định tình cảm vợ chồng không còn nên vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông Hồ Ngọc A. Về con chung, đối với cháu T, cháu C đã đủ tuổi trưởng thành và phát triển bình thường nên bà không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Đối với cháu Hồ Lê Thiên A còn nhỏ, hiện đang được bà chăm sóc, nuôi dưỡng nên bà có nguyện vọng được nuôi cháu A, không yêu cầu ông A phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung, bà V xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Ông Hồ Ngọc A có đơn xin xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, các đương sự và Hội đồng xét xử. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của bà V. Về con chung, giao con chung là Hồ Lê Thiên A cho bà V có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con, về việc cấp dưỡng nuôi con bà V, ông A không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Hồ Ngọc A đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa hôm nay và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 cần xem xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà V và ông A xây dựng gia đình với nhau vào năm 1993 trên cơ sở tìm hiểu, tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Y, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Cuộc sống chung của vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Tại phiên toà, bà V xác định không còn tình cảm với ông A và giữ nguyên yêu cầu được ly hôn. Còn ông A có đơn xin vắng mặt. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà V và ông A đã trầm trọng do vợ chồng không hợp nhau, không thông cảm chia sẻ với nhau trong cuộc sống hàng ngày dẫn đến cuộc sống chung của vợ chồng không hạnh phúc nên cả hai đã tự sống ly thân nhau từ năm 2009 cho đến nay. Vì vậy, nếu cứ kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện nay cũng không mang lại hạnh phúc cho các đương sự do mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận đơn xin ly hôn của bà V, xử cho bà V và ông A được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.

[3] Về con chung: Bà V và ông A có 03 con chung là Hồ Lê Thiên T, sinh năm 1995; Hồ Ngọc C, sinh năm: 1996 và Hồ Lê Thiên A, sinh ngày 30/12/2009. Khi ly hôn cháu T, cháu C đã đủ tuổi trưởng thành và phát triển bình thường nên không đặt ra để xem xét giải quyết. Đối với cháu Hồ Lê Thiên A còn nhỏ và có nguyện vọng được ở với mẹ. Xét thấy, hiện nay cháu A đang được bà V chăm sóc, nuôi dưỡng. Vì vậy, để đảm bảo sự ổn định về mặt tâm sinh lý của trẻ nhỏ cần tiếp tục giao con chung là Hồ Lê Thiên A, sinh ngày 30/12/2009 cho bà V có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là hoàn toàn phù hợp.

Về việc cấp dưỡng nuôi con, bà V không yêu cầu nên không đặt ra để xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà V và ông A xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, không đặt ra để xem xét.

[5] Về án phí: Bà V phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 51; Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 147; Điều 227; Điều 228 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1/ Chấp nhận đơn xin ly hôn của bà V, xử cho bà Lê Thị Thiên V và ông Hồ Ngọc A được ly hôn.

2/ Về con chung: Giao con Hồ Lê Thiên A, sinh ngày 30/12/2009 cho bà V có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con.

Về việc cấp dưỡng nuôi con, bà V không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3/ Về án phí: Bà V phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số AA/2016/0017140 ngày 15 tháng 01 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt, bà V đã nộp đủ án phí.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (15.5.2020). Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15(mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 15/05/2020 về xin ly hôn

Số hiệu:22/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;