Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 04/06/2020 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 22/2020/HNGĐ-ST NGÀY 04/06/2020 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 04/6/2020 tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 69/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2020, về việc: “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/5/2020 giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Nguyễn Thị Kiều C, sinh năm: 1978. Có mặt.

+ Bị đơn: Mai Thanh H, sinh năm: 1978. vắng mặt.

Cùng địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/02/2020, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Kiều C trình bày:

Chị và anh Mai Thanh H tự nguyện sống chung vào năm 1998 đến năm 2001 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do không cùng quan điểm trong cuộc sống, anh H chỉ lo sống cho bản thân không quan tâm đến hạnh phúc gia đình. Chị nhiều lần động viên khuyên giải để hòa hợp nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gay gắt hơn nên chị và anh H đã ly thân từ tháng 02 năm 2019 cho đến nay. Nay, chị nhận thấy tình cảm giữa chị và anh H không thể hàn gắn lại được nên xin ly hôn.

Trong thời gian chung sống chị và anh H có 03 con chung tên Mai Thanh Q, sinh ngày 15/4/1999, Mai Thanh S, sinh ngày 15/3/2001 và Mai Thanh P, sinh ngày 08/3/2010. Hiện cháu Q và cháu S đã trưởng thành, riêng cháu P đang sống chung với chị. Sau ly hôn chị xin tiếp tục nuôi cháu P, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung và nợ chung không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Mai Thanh H vng mặt tại tòa nhưng có lời trình bày tại biên bản làm việc ngày 28/4/2020 như sau:

Anh và chị C kết hôn vào năm 2001, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do không cùng quan điểm, vợ chồng thường xảy ra cự cãi không hòa hợp được nên đã ly thân. Nay, chị C xin ly hôn anh cũng đồng ý.

Anh và chị C có 03 con chung như chị C đã khai. Hiện cháu Q và cháu S đã trưởng thành, riêng cháu P anh đồng ý để chị C nuôi dưỡng, anh không phải cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung và nợ chung: Không có.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/8/2000. Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Kiều C đối với anh Mai Thanh H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe các đương sự phát biểu tranh luận. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Mai Thanh H có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Xét thấy, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên được chấp nhận.

[2] Về nội dung vụ kiện: Chị Nguyễn Thị Kiều C và anh Mai Thanh H tự nguyện kết hôn vào năm 2001, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn do không cùng quan điểm trong cuộc sống nên anh chị đã ly thân cho đến nay. Chị C cho rằng, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh H không quan tâm đến gia đình, chị nhiều lần động viên khuyên giải và tạo điều kiện để vợ chồng hòa hợp nhưng không có kết quả. Nay, chị C khẳng định mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng nên chị xin ly hôn với anh H. Anh H cũng đồng ý ly hôn vì tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nhưng do bận công việc nên anh xin vắng mặt. Hội đồng xét xử thấy rằng, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nhưng do anh H vắng mặt tại tòa nên Hội đồng xét xử không thể ghi nhận sự thuận tình ly hôn của anh chị được mà căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, xử cho chị C và anh H được ly hôn.

[3] Trong quá trình chung sống, anh H và chị C có 03 con chung tên Mai Thanh Q, sinh ngày 15/4/1999, Mai Thanh S, sinh ngày 15/3/2001 và Mai Thanh P, sinh ngày 08/3/2010. Hiện cháu Q và cháu S đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem xét vấn đề nuôi dưỡng. Chị C yêu cầu tiếp tục nuôi cháu P, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Anh H cũng đồng ý. Xét thấy, việc trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn không những là quyền mà còn là nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chưa thành niên. Từ khi ly thân đến nay chị C là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, cháu P được chị C quan tâm chăm sóc tốt không thấy có vi phạm gì, hiện cháu P cũng có nguyện vọng được sống với mẹ. Để đảm bảo cho đời sống của con sau này và để không làm xáo trộn cuộc sống của con chưa thành niên nên chấp nhận yêu cầu của chị C và ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự. Chị C được tiếp tục nuôi dưỡng cháu P cho đến khi tròn 18 tuổi, ghi nhận chị C không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị C và anh H khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên ghi nhận.

[5] Về án phí: Chị C phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Kiều C đối với anh Mai Thanh H.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Kiều C và anh Mai Thanh H được ly hôn.

2. Về con chung: Anh H và chị C có 03 con chung tên Mai Thanh Q, sinh ngày 15/4/1999, Mai Thanh S, sinh ngày 15/3/2001 đã trưởng thành. Chị C được tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cháu Mai Thanh P, sinh ngày 08/3/2010 cho đến khi cháu P tròn 18 tuổi. Ghi nhận chị C không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con theo yêu cầu của một hoặc hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị C và anh H khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên ghi nhận.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kiều C phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0009773 ngày 25/02/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bến Tre. Chị C đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án nguyên đơn có mặt tại tòa có quyền làm đơn kháng cáo, bị đơn vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại trụ sở UBND nơi cư trú của bị đơn để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 04/06/2020 về xin ly hôn

Số hiệu:22/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;