Bản án 22/2019/HSST ngày 30/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 22/2019/HSST NGÀY 30/01/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2019/QĐ-HSST ngày 18-01-2019 đối với bị cáo:

Đỗ Thịnh P, sinh năm 1981, tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Thôn L, xã M, huyện M, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Hồng P và bà Lê Thị V; chưa có vợ; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 10-10-2018 Công an thành phố N xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền mức phạt 750.000 đồng về hành vi “Đánh nhau”; nhân thân: Ngày 17-02-2012 Toà án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25-11-2018 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; bị cáo Đỗ Thịnh P có mặt tại phiên toà.

- Người làm chứng: Anh Trần Xuân T, ông Trần Khắc H (Anh T, ông H vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 25-11-2018, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cổng trường PTTH Trần Hưng Đạo đường T, phường L, thành phố N phát hiện Đỗ Thịnh P điều khiển xe máy biển kiểm soát P8-6768 chở Hoàng Thị T địa chỉ 25 P, phường T, thành phố N; chỗ ở đội 1, thôn L, xã L, thành phố N có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện và thu giữ trong túi áo khoác bên phải của P 01 gói ni lông màu trắng bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (P khai là 01 gói ma túy đá để bán kiếm lời). Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng ký hiệu M, kiểm tra T không thu giữ gì. Sau đó đưa P, T cùng người làm chứng về trụ sở lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của P 01 điện thoại di động Nokia và xe máy biển kiểm soát P8-6768 đều đã cũ.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của P tại thôn L, xã M, huyện M, tỉnh Nam Định, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N không thu giữ được gì.

Bản kết luận giám định số 1011/GĐKTHS ngày 27/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của P được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy Methamphetamine. Khối lượng mẫu 0,293 gam (Không phẩy hai chín ba gam).

Tại cơ quan điều tra, Đỗ Thịnh P đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để bán kiếm lời và nguồn gốc gói ma túy trên như sau: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 25-11-2018, P đi bộ một mình từ nhà đến khu vực ngã ba đền T, phường L, thành phố N gặp và mua của một người phụ nữ tên Liên (Không rõ lai lịch) đang đứng ở ven đường 01 gói ma túy đá với giá 150.000 đồng. P cất gói ma túy đá vừa mua được vào trong túi áo khoác bên phải rồi đi bộ về nhà. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, một nam thanh niên tên H (Không rõ lai lịch) gọi điện cho P hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng và khi bán được gói ma túy đá này thì P sẽ kiếm lời 50.000 đồng. P đồng ý và hẹn H ra khu vực đê T, thành phố N để giao dịch. Sau đó P rủ Hoàng Thị T (Đang ở nhà P) đi chơi với P (P không nói cho T biết việc P đi bán ma túy) rồi điều khiển xe máy biển kiểm soát 18P8-6768 chở T đến khu vực trước cổng trường Trần Hưng Đạo, đường T, phường L, thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ như đã nêu trên.

Hoàng Thị T khai: T không biết và không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để bán kiếm lời của Đỗ Thịnh P.

Bản cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 18-01-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo Đỗ Thịnh P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Đỗ Thịnh P xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng biện pháp ép cung, bức cung hay nhục hình. Bị cáo khai nhận biết rõ hành vi mua bán trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vì mục đích kiếm lời nên đã mua ma túy bán lại cho các con nghiện để kiếm lời và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu là đúng. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn, hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm truy tố bị cáo Đỗ Thịnh P theo Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đỗ Thịnh P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Khoản 1, Khoản 5 Điều 251, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Đỗ Thịnh P từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù giam; phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo từ 5.000.000 triệu đến 7.000.000 triệu đồng.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Xử lý vật chứng tịch thu tiêu huỷ số ma tuý đã thu giữ của bị cáo. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia mầu đen bạc.

Bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Đỗ Thịnh P có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng; biên bản mở niêm phong vật chứng; bản kết luận giám định số1011/GĐKTHS ngày 27-11-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và lời khai của những người làm chứng nên đã có đủ cơ sở kết luận khoảng 19 giờ ngày 25-11-2018, tại khu vực trước cổng trường PTTH Trần Hưng Đạo, phường L, thành phố N bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,293 gam ma tuý loại Methamphetamine với mục đích để bán kiếm lời thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi bán ma túy kiếm lời bất chính của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo theo Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người đúng tội.

[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là đối tượng có nhân thân xấu.

[4] Về hình phạt: Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo bán ma túy với mục đích kiếm lời bất chính nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với đối tượng đã bán ma túy của bị cáo và đối tượng đã nhờ bị cáo mua ma túy, Cơ quan điều tra Công an thành phố N đang tiến hành xác minh nên tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với Hoàng Thị T do không biết việc P tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra không đưa ra hình thức xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng, tài sản: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Số ma túy thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen bạc đã cũ thu của bị cáo là công cụ bị cáo để liên lạc mua bán ma tuý nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát P8-6768 xét thấy không phải là vật chứng của vụ án nên Cơ quan điều tra đã làm thủ tục trả lại cho chủ sở hữu là chị Hoàng Thị T là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1, Khoản 5 Điều 251, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Thịnh P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thịnh P 36 (Ba sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 25-11-2018.

2. Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Đỗ Thịnh P 5.000.000 đ (Năm triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

3. Xử lý vật chứng, tài sản: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo Đỗ Thịnh P. Tịch thu sung quỹ Nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen bạc đã cũ (Vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03-01-2019 giữa Công an thành phố N với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đỗ Thịnh P phải nộp 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo Đỗ Thịnh P có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2019/HSST ngày 30/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;