TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 22/2019/HSST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH VÀ CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai, Tòa án nhân dân huyện Kông Chro xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 22/2019/HSST ngày 19/11/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2019/QĐXXST-HS ngày 19/11/2019, đối với bị cáo:
ĐINH U, sinh ngày 01/01/2001 tại Kông Chro, Gia Lai; nơi cư trú: làng P, xã S, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Ba Na; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Đinh B, sinh năm 1978 (đã chết) và bà Đinh Thị C, sinh năm 1978; gia đình bị cáo có 03 anh chị em, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo Đinh U: Bà Cao Thị Mi Sa - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai. Có mặt.
* Bị hại: Anh Đinh Văn H, sinh năm 2000; nơi cư trú: làng K, xã Đ, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Thành Trung - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai. Có mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Đinh Văn B, sinh ngày 15/6/2005; nơi cư trú: làng S, xã S, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp của Đinh Văn B là ông Đinh H, sinh năm 1984 (là bố của Đinh Văn B); cư trú tại: làng S, xã S, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
* Người phiên dịch tiếng Ba Na: Ông Đinh Văn D. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ ngày 07/8/2019, Đinh U cùng với Đinh Văn B đi ăn đám cưới tại làng S, xã S, huyện Kông Chro. Sau khi ăn đám cưới xong thì U và B đi xuống làng Kliết-LPôn, xã Đắk Song chơi thì B đồng ý. Khoảng 12 giờ 10 phút cùng ngày thì U và B vào nhà Đinh Đ tại làng Kliết - H’ôn để chơi. Tại đây U và B thấy Đinh S, Đinh Văn T, Đinh Đ, M, C, Hi, S nhậu tại nhà của Đ nên vào nhậu cùng. Khoảng 20 phút sau thì Đinh Văn H, Đinh Văn T mang một con gà tới. Thấy Đinh U đang ở nhà Đinh Đ nên H nói với U “Đ.M mày vào lúc nào” thì U không trả lời, sau đó mọi người tiếp tục ngồi uống rượu. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, lúc này trong nhà Đ đang nướng cá có nhiều khói nên U nói với nhóm ra cầu mới xây đầu làng Kliết-H’ôn để tiếp tục nhậu cho thoáng thì mọi người đồng ý. Lúc đi, thấy H mang theo một con gà nên U nói với T đi lấy một con dao rựa của nhà Đ mang theo để làm thịt gà. Sau khi ra đầu cầu nhậu được khoảng 30 phút thì U hỏi “Sao lúc nãy mày chửi tao”, thì H nói là “Tao không chửi mày”. Vì bực tức nên U đã chỉ vào H và nói với B “Đánh nó cho tao, có tao đây mày đừng sợ”, B đồng ý và đứng dậy dùng tay, chân đánh và đá vào mặt H nhưng không gây thương tích, sau đó B ngồi xuống. Một lúc sau U lấy con dao rựa (lấy từ trước ở nhà Đinh Đ để làm thịt gà) chém 03 cái vào lưng H. Thấy H bị đánh nên S chạy lại ôm U còn T giật dao rựa trên tay U ra rồi vứt xuống suối. Lúc này H xin lỗi U nhưng U không đồng ý. Vì sợ bị U đánh tiếp nên nói “Anh muốn gì cũng được”. Tiếp đó U bắt H phải mua một thùng bia và đưa cho U 300.000 đồng thì U mới chấp nhận. Do sợ bị đánh nên H nhờ T chở mình đi mua một thùng bia trị giá 160.000 đồng và mượn của bà Huỳnh Thị Chiến số tiền 300.000 đồng để về đưa cho Đinh U. Ngồi đợi khoảng 15 phút sau do thấy H đi lâu chưa về nên U xuống suối nhặt lại dao rựa và nói T chở đi tìm H. Khi U đến làng Kliết-H’ôn thì gặp H, T đang trên đường về khu vực cầu và chở theo một thùng bia Sài Gòn (loại bia chai thủy tinh), U chặn xe H lại rồi nói “sao bọn mày đi lâu thế” và dùng dao rựa định chém H thì T cản lại, T đã lấy dao rựa từ tay U đem đi cất giấu. Sau đó, U nói T mang bia và cả nhóm quay về khu vực cầu nhậu tiếp. Khi về đến khu vực cầu thì H khui hai chai bia, một chai đưa cho U, một chai cho mình, đồng thời H đưa cho U 300.000 đồng của mình thì U nhận tiền, đếm đủ và cất trong túi quần.
Sau khi U uống hết bia trong chai, thấy H chưa uống hết bia trong chai của H nên U giật lấy chai bia. U tiếp tục cầm vỏ chai bia của H đổ hết bia ra ngoài rồi cầm vỏ chai chai bia đập vào đầu H làm bể chai bia. U tiếp tục cầm vỏ chai bia của mình đập vào đầu H làm bể chai bia thứ hai. Sau khi bị đánh, H tiếp tục khui bia phát đều cho mọi nguời uống. Riêng U lấy thêm ba chai bia khác đổ bia ra ngoài rồi sử dụng 02 vỏ chai bia đập liên tiếp vào đầu H. Thấy H bị chảy máu nhiều nên mọi nguời can ngăn nên U không đánh H nữa. Sau đó U nói B lấy xe chở đi về xã S. Còn H được em trai là Đinh Huơ đưa lên Trung tâm y tế huyện Kông Chro điều trị thương tích đến ngày 14/8/2019 xuất viện.
Tại bản kết luận giám định pháp ỵ số 208/2019/PY-TgT ngày 30/9/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định kết luận tỷ lệ tổn hại sức khỏe của Đinh Văn H do thương tích gây nên là 13% (mười ba phần trăm).
Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 18/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo Đinh U về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự và tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 170 của Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án đã khẳng định việc truy tố bị cáo Đinh U về tội danh và điều luật như Cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Đinh U phạm tội “Cố ý gây thương tích” và tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đinh U về tội “Cố ý gây thương tích” và áp dụng khoản 1 Điều 170; các điểm b, h, s khỏa 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đinh U về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
+ Đề nghị xử phạt Đinh U từ 24 đến 26 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
+ Đề nghị xử phạt bị cáo Đinh U từ 12 đến 14 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội đối với bị cáo, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Đinh U phải chấp hành chung của hai tội từ 36 đến 40 tháng tù.
- Về bồi thường dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo Đinh U đã tự nguyện bồi thường xong cho bị hại, Hiện bị hại không có yêu cầu bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về án phí hình sự sơ thẩm: Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đinh U vì bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng 01 (một) dao rựa dài 64cm, được kết cấu vơi hai phần, phần lưỡi kim loại và cán gỗ. Phần cán gỗ có chiều dài 38cm, đường kính 03cm, một đầu cán gỗ có 06 vòng kim loại bao quanh. Phần lưỡi kim loại cong một đầu, một lưỡi sắc có chiều dài 26cm, phần rộng nhất có chiều dài 4,5cm, hẹp nhất 0,5cm, phần dày nhất 0,4cm. Dao rựa đã qua sử dụng, phần lưỡi tại một số vị trí có dấu vết hoen rỉ sắt và nhiều mảnh thủy tinh màu nâu, kích thước 02x10cm và 05 cổ chia thủy tinh bên ngoài có bọc lô gô bia Sai Gon bị vỡ nham nhở.
Người bào chữa cho bị cáo Đinh U đồng ý với tội danh, khung hình mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Kông Chro đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị phạt bị cáo mức hình phạt tù thấp nhất như đề xuất của đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại trình bày ý kiến: Việc bị cáo bị truy tố về tội danh, khung hình phạt như bản cáo hạng là có căn cứ. Bị cáo phạm tội với tính chất quyết liệt vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện tội phạm đến cùng theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên việc đề xuất xử phạt bị cáo của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở, kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định, về dân sự bị cáo đã bồi thường xong nên bị hại không có yêu cầu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung:
Xét lời khai của bị cáo Đinh U tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, khám nghiệm hiện trường và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, vật chứng thu giữ được, từ đó đã xác định:
Vì bực tức cho rằng Đinh Văn H chửi mình, nên vào lúc 13 giờ 30 phút, ngày 07/8/2019, tại khu vực cầu mới thuộc làng Kliết-H’ôn, xã Đắk Song, Đinh U đã dùng dao rựa chém vào lưng của H, sau đó dùng 04 vỏ chai bia Sai Gon (loại chai thủy tinh) đập vào đầu H gây thương tích. Tổng tỷ lệ tổn hại sức khỏe của H do thương tích gây nên là 13%. Mặc dù tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại là 13% (thuộc trường hợp tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%) nhưng do bị cáo đã dùng dao rựa, sau đó là vỏ chai bia bằng thủy tinh là hung khí nguy hiểm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự. Giữa bị cáo và bị hại không có xảy ra mâu thuẫn, thù oán gì nên hành vi của bị cáo thể hiện thái độ ngang ngược, coi thường pháp luật, bất chấp quy tắc ứng xử và đạo đức xã hội, nên hành vi của bị cáo thể hiện tính chất côn đồ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự. Do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự.
Mặt khác, sau khi dùng dao rựa chém gây thương tích cho H xong, Đinh U buộc H phải đưa cho mình 300.000 đồng và một thùng bia. Vì sợ U đánh nên H miễn cưỡng đến nhà bà Huỳnh Thị Chiến ở làng Kliết-H’ôn, xã Đắk Song mua nợ một thùng bia trị giá 160.000 đồng và mượn bà Chiến 300.000 đồng để đưa cho Đinh U. Hành vi đó của bị cáo Đinh U đã phạm vào tội “Cưỡng đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 170 của Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ; đồng thời đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Do đó việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kông Chro tại bản cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 18/11/2019 đối với bị cáo về tội danh, khung hình phạt là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng:
Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Đối với hành vi gây thương tích cho H, bị cáo đã bồi thường số tiền 2.500.000 đồng cho bị hại; đã ăn năn hối hận về hành vi của mình gây ra, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự về tội “Cố ý gây thương tích”. Đối với tội “Cưỡng đoạt tài sản”, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại trả lại cho bị hại trị giá của một thùng bia là 160.000 đồng và 300.000 đồng đã chiếm đoạt của H; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Đồng thời tại phiên tòa bị hại Đinh Văn H xin giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, cho cả hai tội danh.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và xét thấy cần phải có hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và răn đe phòng ngừa chung.
Đối với Đinh Văn B khi nghe Đinh U nói đánh Đinh Văn H, do lo sợ việc nếu mình không thực hiện theo lời của bị cáo U thì bản thân cũng bị đánh nên B sử dụng tay, chân đánh vào mặt H nhưng không gây thương tích. Việc bị cáo dùng dao rựa chém H, B không biết, đây là hành vi vượt quá của cá nhân B. Trước khi đánh H, thì giữa bị cáo và B không có sự bàn bạc, thống nhất nên hành vi của B không đồng phạm với bị cáo. Mặt khác khi thực hiện hành vi đánh H thì B mới 14 tuổi 01 tháng 22 ngày chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường, bị hại không yêu cầu về phần bồi thường dân sự nữa nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Vật chứng vụ án: 01 (một) dao rựa dài 64cm, được kết cấu với hai phần, phần lưỡi kim loại và cán gỗ. Phần cán gỗ có chiều dài 38cm, đường kính 03 cm, một đầu cán gỗ có 06 vòng kim loại bao quanh. Phần lưỡi kim loại cong một đầu, một lưỡi sắc có chiều dài 26cm, phần rộng nhất có chiều dài 4,5cm, hẹp nhất 0,5cm, phần dày nhất 0,4cm. Dao rựa đã qua sử dụng, phần lưỡi tại một số vị trí có dấu vết hoen rỉ sắt và nhiều mảnh thủy tinh màu nâu, kích thước 02x10cm và 05 cổ chia thủy tinh bên ngoài có bọc lô gô bia Sai Gon bị vỡ nham nhở. Xét đây là công cụ gây án nên cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về án phí: Xét bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và bị cáo có đơn xin miễn án phí nên chấp nhận miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đinh U.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đinh U phạm các tội “Cố ý gây thương tích” và “Cưỡng đoạt tài sản”.
2. Về điều luật áp dụng:
- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự về tội “Cố ý gây thương tích”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 170; Điều 38; các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội đối với bị cáo Đinh U.
3. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đinh U 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” và 01 (một) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Đinh U phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
4. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) dao rựa dài 64cm, được kết cấu với hai phần, phần lưỡi kim loại và cán gỗ. Phần cán gỗ có chiều dài 38cm, đường kính 03 cm, một đầu cán gỗ có 06 vòng kim loại bao quanh. Phần lưỡi kim loại cong một đầu, một lưỡi sắc có chiều dài 26cm, phần rộng nhất có chiều dài 4,5cm, hẹp nhất 0,5cm, phần dày nhất 0,4cm. Dao rựa đã qua sử dụng, phần lưỡi tại một số vị trí có dấu vết hoen rỉ sắt và nhiều mảnh thủy tinh màu nâu, kích thước 02x10cm và 05 cổ chai thủy tinh bên ngoài có bọc lô gô bia Sai Gon bị vỡ nham nhở.
(Đặc điểm, tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/11/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Kông Chro và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai).
5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đinh U.
6. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (28/11/2019) bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.
Bản án 22/2019/HSST ngày 28/11/2019 về tội cố ý gây thương tích và cưỡng đoạt tài sản
Số hiệu: | 22/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về