Bản án 22/2019/HSST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 22/2019/HSST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2019/TLST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 34/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN THỊ NGỌC A - sinh năm: 1988, tại thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ĐKHKTT: XC, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đã cư trú: khu phố 9, phường B, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Chỗ ở trước khi bị bắt: Khu phố 1, phường H, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Không xác định và bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1965; Chồng: Nguyễn Minh L, sinh năm 1984 và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2013. Tiền án, Tiền sự: Không; nhân thân: không. Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ ngày: 11/9/2018; chuyển sang tạm giam ngày: 20/9/2018. Bị cáo bị tạm giam có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Ông Thông Minh T, sinh năm 1995.

Nơi ĐKHKTT: Khu phố 1, phường PT, thành phố P.

Nơi đăng ký tạm trú: Thôn U, huyện H, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ 00 phút ngày 11/9/2018, Nguyễn Thị Ngọc A điều khiển xe mô tô biển số 52T7-9857 đi đến quán lẩu dê H trên đường NTT, thuộc khu phố 3, phường B, thành phố P thì bị tổ công tác thuộc Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Thuận phối hợp với Công an phường B, thành phố phan Thiết bắt quả tang Nguyễn Thị Ngọc A đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đồng thời tiến hành lập biên bản sự việc và thu giữ những tang vật sau: 02 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước lần lượt là 1,5x2,5cm và 1,5x3,5cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng được thu giữ trong cổ tay áo khoác phía bên trái của Nguyễn Thị Ngọc A đang mặc; tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 500.000đ (năm trăm nghìn đồng); 01 chiếc xe máy màu trắng hiệu SYM Atila, biển số 52T7-9857, số khung RLGKA12ED7D003508; số máy VMVT5A-D003508, có gương chiếu hậu bên trái, đèn xi nhan bên phải bị bể; 01 điện thoại di động màu đen, mặt sau điện thoại có dán kim tuyến màu hồng, bên trong có chứa 02 sim số 0948092455 và 0923888465. Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Thuận ra lệnh và tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị Ngọc A tại khu phố 1, phường H, thành phố P vào lúc 14 giờ 30 phút, ngày 11/9/2018 nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Qúa trình điều tra, Nguyễn Thị Ngọc A khai nhận: Khoảng 21 giờ 00 ngày 10/9/2018, Nguyễn Thị Ngọc A dùng điện thoại có sim số 0948092455 gọi điện thoại cho một người tên H (chưa rõ nhân thân) có số điện thoại 0167778020 hỏi mua 500.000đ tiền ma túy đá, H đồng ý bán và hẹn A đến con hẻm trên đường Võ Thị Sáu. Tại đây, A đưa tiền cho H và nhận từ H 02 gói nylon không màu, hàn kín, bên trong chứa ma túy đá rồi cất vào cổ tay áo, mục đích để sử dụng. Sau đó Nguyễn Thị Ngọc A quay về phòng trọ của mình tại khu phố 1, phường H, thành phố P và lấy số ma túy vừa mua được để sử dụng một ít, còn lại A tiếp tục cất 02 gói ma túy đá trong cổ tay áo khoác của mình.

Đến khoảng 11 giờ 00 phút ngày 11/9/2018, Nguyễn Thị Ngọc A điều khiển xe mô tô biển số 52T7-9857 đi đến quán lẩu dê H trên đường NTT thuộc phường B, thành phố P thì bị tổ công tác thuộc Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Thuận bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 812 ngày 17/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 0,1961 gam là Methamphetamine.

- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 0,0826 gam là Methamphetamine. Hoàn lại mẫu vật sau giám định gồm: 02 gói nylon đã cắt lấy mẫu, 0,1243 gam mẫu M1 và 0,0488 gam mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 812, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Ngày 18/9/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Thuận chuyển tin báo về tội phạm cùng toàn bộ tài liệu, vật chứng có liên quan theo phiếu chuyển số 2259/PC04 đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết để thụ lý theo thẩm quyền.

Qúa trình điều tra ban đầu, Nguyễn Thị Ngọc A đã khai gian tên tuổi của mình và sử dụng chứng minh nhân dân của người em mang tên Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1996, hộ khẩu thường trú tại xã N, huyện NB, thành phố Hồ Chí Minh để khai báo với cơ quan điều tra. Do đó, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã ra quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với Nguyễn Thị Ngọc A bằng tên Nguyễn Ngọc T. Tại kết luận giám định số 1071/KLGĐ-PC09 ngày 17/11/2018 Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bình thuận kết luận: Vân tay in trên Danh chỉ bản vân tay số 223 mang tên Nguyễn Ngọc T (tài liệu ký hiệu A) so với vân tay in trên tờ khai chứng minh nhân dân số 025443246 và chỉ bản vân tay mang tên Nguyễn Ngọc T (tài liệu ký hiệu M1) là không phải vân tay của cùng một người; Vân tay in trên Danh chỉ bản vân tay số 223 mang tên Nguyễn Ngọc T (tài liệu ký hiệu A) so với vân tay in trên tờ khai chứng minh nhân dân số 024230478 và chỉ bản vân tay mang tên Nguyễn Thị Ngọc A (tài liệu ký hiệu M2) là vân tay của cùng một người. Đến ngày 03/12/2018 cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã thay đổi quyết định khởi tố bị can từ Nguyễn Ngọc T thành Nguyễn Thị Ngọc A.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Thị Ngọc A đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Đối với người đàn ông đã bán ma túy, Nguyễn Thị Ngọc A khai chỉ biết tên H, không biết họ tên thật, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Cáo trạng số 27/CT-VKS-PT ngày 20 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết truy tố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự .

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, rút lại nội dung áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo, các nội dung còn lại giữ nguyên quyết định truy tố theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Nguyễn Thị Ngọc A, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thị Ngọc A mức hình phạt từ 12 tháng đến 18 tháng tù .

Áp dụng khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu hủy 02 (hai) gói nylon đã cắt lấy mẫu, 0,1243 gam mẫu M1 và 0,0488 gam mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 812, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Bình Thuận; Tch thu sung quỹ Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động màu đen, mặt sau có dán kim tuyến màu hồng, có gắn sim số 0948092455 và sim số 0923888465.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo biết hành vi tàng trữ ma túy của mình là sai mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và hai con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra-Công an thành phố Phan Thiết, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ buộc tội đối với bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và người có quyền và nghĩa vụ liên quan, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, các vật chứng đã thu giữ và kết luận giám định, phù hợp các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 11/9/2018, Nguyễn Thị Ngọc A điều khiển xe mô tô biển số 52T7-9857 đi đến quán lẩu dê H trên đường NTT, thành phố P thì bị tổ công tác thuộc Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Thuận phối hợp với Công an phường Bình Hưng, thành phố phan Thiết bắt quả tang Nguyễn Thị Ngọc A đang cất giấu 0,2787 gam chất Methamphetamine trên cổ tay áo khoác bên tay trái của A. Nguyễn Thị Ngọc A khai rằng việc cất giấu ma túy trong người là để sử dụng dần.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Thị Ngọc A đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2787 gam chất Methamphetamine.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A cho thấy bị cáo biết rõ ma túy là chất gây nghiện, nhận thức được tác hại nguy hiểm của ma túy đối với người sử dụng và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác, biết rõ được việc tàng trữ, sử dụng ma túy là trái pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ bất chấp quy định pháp luật. Rõ ràng hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là hành vi cố ý, hành vi đó không những xâm phạm đến chế độ thống nhất quản lý của nhà nước đối với các chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Hành vi vừa nêu trên của bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A đã đủ yếu tố cấu thành “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; xét thấy nội dung cáo trạng đã truy tố là có căn cứ.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết rút nội dung “Nguyễn Thị Ngọc A nhân thân chưa có tiền án, tiền sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự”, không áp dụng tình tiết nhân thân chưa có tiền án, tiền sự làm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là có căn cứ. Bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính điều luật còn quy định có thể áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo; Xét thấy bị cáo là người nghiện ma tuý, bản thân không có nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh có hai con nhỏ nên thấy cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Đối với đối tượng bán chất ma túy cho Nguyễn Thị Ngọc A, quá trình điều tra Nguyễn Thị Ngọc A khai nguồn gốc ma túy bị cáo tàng trữ được mua từ một người tên H nhưng không rõ nhân thân lai lịch. Do không xác định được nhân thân, địa chỉ của đối tượng này nên không có cơ sở để xử lý.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án:

Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an thành phố Phan Thiết đã xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe mô tô hiệu SYM Atila màu trắng, biển số 52T7-9857 là tài sản của anh Thông Minh T, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Thị Ngọc A và trả lại số tiền 500.000đ của Nguyễn Thị Ngọc A, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Thị Ngọc A là đúng pháp luật.

Đi với các vật chứng đã thu giữ gồm: một điện thoại di động màu đen, mặt sau có dán kim tuyến màu hồng, có gắn sim số 0948092455 và sim số 0923888465. Xét thấy đây là tài sản bị cáo đã sử dụng vào việc liên lạc mua ma túy; do đó cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đi với hai gói nylon đã cắt lấy mẫu vật, 0,1243 gam mẫu M1 và 0,0488 gam mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 812, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Bình Thuận, đây là vật chứng của vụ án nhưng là vật cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy.

(Hiện toàn bộ vật chứng trên đang tạm gửi tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 71 ngày 21/3/2019).

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên ;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 11/9/2018.

Căn cứ: khoản 1 Điều 46, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+Tch thu tiêu hủy: hai gói nylon đã cắt lấy mẫu vật, 0,1243 gam mẫu M1 và 0,0488 gam mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 812, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Bình Thuận.

+Tịch thu sung quỹ nhà nước: một điện thoại di động màu đen, mặt sau có dán kim tuyến màu hồng, có chứa sim số 0948092455 và sim số 0923888465.

(Hiện toàn bộ tang vật trên đang tạm gửi tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 71 lập ngày 21 tháng 3 năm 2019).

Căn cứ: khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (16/4/2019), người có quyền và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2019/HSST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;