Bản án 22/2019/HS-ST ngày 10/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 10/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/HSST ngày 07 tháng 3 năm 2019, quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Ch - Sinh năm 1972, tại xã HS, huyện GT, tỉnh NĐ; nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Xóm 4, xã HS, huyện GT, tỉnh NĐ. Nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn M (đã chết) và bà Lê Thị Th, sinh năm 1953; Vợ là Mai Thị H, sinh năm 1972; có 02 con, lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 1999 .Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam tính từ ngày bị bắt tạm giữ 12/12/2018 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định.

- Người làm chứng:

+ Anh Vũ Văn H - Sinh năm 1985; địa chỉ: Xóm 8 QT ,xã GT, huyện GT, tỉnh NĐ.

+ Anh Vũ Ngọc H - Sinh năm 1981; địa chỉ: Xóm 7 QT, xã GT, huyện GT, tỉnh NĐ.

+ Ông Trần Văn Th - Sinh năm 1954.

+ Chị Mai Thị H - Sinh năm 1972.

Đều có địa chỉ: Xóm 4, xã HS, huyện GT, tỉnh NĐ.

Tại phiên tòa: Có mặt bị cáo và chị H, những người làm chứng còn lại vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10 giờ ngày 12/12/2018, tổ công tác Phòng CSĐT tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực xóm 2 QT xã GT, huyện GT phát hiện Nguyễn Văn Ch điều khiển xe máy BKS 18F9-4989 có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác yêu cầu Ch dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, phát hiện và thu giữ trong túi quần bên trái đang mặc của Ch 01 gói nhỏ gói bằng giấy báo bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (Ch khai là gói Heroine vừa mua để sử dụng), được niêm phong ký hiệu M. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của Ch 01 xe máy BKS 18F9-4989 đã qua sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định.

Ngày 12/12/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy đã đưa gói chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Ch đi giám định.Tại bản kết luận giám định số: 1100/GĐKTHS ngày 14/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 (một) gói giấy báo được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu M: 0,192 gam.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số: 16/CT-VKS ngày 06/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy truy tố bị cáo Nguyễn Văn Ch về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Ch đã khai nhận hành vi cất giấu trái phép 01 gói Heroine, khối lượng là 0,192 gam để sử dụng cho bản thân. Như vậy hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Ch từ 18 đến 24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả mẫu vật sau giám định.

Bị cáo Nguyễn Văn Ch nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được miễn hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 10 giờ ngày 12/12/2018, tổ công tác phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực xóm 2 QT, xã GT, huyện GT phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn Ch có hành vi cất giấu trái phép 0,192 gam Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Do đó bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức ma túy là hiểm họa của mỗi gia đình và cộng đồng xã hội là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các tệ nạn xã hội, gia tăng tội phạm hình sự, xâm phạm tới đạo đức và sức khỏe con người. Bị cáo biết việc làm của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của ma tuý nhưng vẫn cố ý thực hiện mua ma túy cất giấu để sử dụng cho bản thân. Hành vi phạm tội của bị cáo với tính chất nghiêm trọng, buộc bị cáo phải tập trung cải tạo một thời gian để giáo dục riêng đối với bị cáo và đáp ứng công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[3] Khi quyết định hình phạt, HĐXX xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, vợ bị cáo có đơn trình bày bị cáo là lao động chính, hoàn cảnh gia đình khó khăn 02 con chưa có việc làm được chính quyền địa phương nơi cư trú xác nhận. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả mẫu vật sau giám định.

Về nguồn gốc số Heroine bị cáo cất giấu trái phép để sử dụng, bị cáo khai mua của người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở khu vực dốc HN xã GT. Quá trình điều tra không xác định được đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 18F9 - 4989 thu giữ, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Mai Thị Hoa (vợ của Chiến). Chị H không biết Ch sử dụng xe để đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chị H là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Ch 21(Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/12/2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả mẫu vật sau giám định.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 08/3/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Văn Ch phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Văn Ch có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án.

Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2019/HS-ST ngày 10/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;