Bản án 22/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 3 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn Th (tên gọi khác: Không); sinh ngày 01 tháng 01 năm 1982 tại thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú: Tổ 25, khu 3, phường HPh, thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Công Th, sinh năm 1954 và bà Tạ Thị Th, sinh năm 1957; có vợ là Phạm Thị Th, sinh năm 1983, có 01 con: sinh năm 2004; tiền sự: kng; tiền án: Ngày 18/9/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái xử phạt 36 tháng tù về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chưa thi hành xong phần dân sự; Ngày 27/9/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xử phạt 18 tháng tù về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chưa thi hành xong phần dân sự. Tổng hợp hình phạt của 2 bản án, buộc Phạm Văn Th phải chấp hành hình phạt chung là 54 tháng tù. Ngày 26/10/2017, chấp hành xong hình phạt tù; nhân thân: Ngày 18/8/2000, bị Tòa án nhân dân thị xã Móng Cái (nay là thành phố Móng Cái) xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Th kháng cáo. Ngày 04/10/2000, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử phúc thẩm, y án sơ thẩm. Ngày 12/6/2001, thi hành xong phần dân sự; Ngày 16/10/2003, bị Tòa án nhân dân thị xã Móng Cái (nay là thành phố Móng Cái) xử phạt 18 tháng tù về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Th kháng cáo. Ngày 23/12/2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử phúc thẩm, xử phạt 12 tháng tù về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Ngày 16/10/2003, thi hành xong phần dân sự; Ngày 04/4/2008, bị Tòa án nhân dân thị xã Móng Cái (nay là thành phố Móng Cái) xử phạt 15 tháng tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 06/4/2009, chấp hành xong hình phạt tù, đã thi hành xong phần dân sự vào ngày 10/9/2010; bị bắt khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 30/11/2018 đến ngày 06/12/2018, tạm giam từ ngày 06/12/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1957; địa chỉ: Tổ 1, khu NS, phường NKh, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Công D, sinh năm: 1990; địa chỉ: Số 61/61, Phương Lưu, phường VM, quận NgQ, thành phố Hải Phòng, vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Trần Minh T, sinh năm: 1993; địa chỉ: Tổ 1, khu Nam Sơn, phường NKh, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ ngày 29/11/2018, Phạm Văn Th đi xe ô tô khách từ thành phố HL đến phường NKh, thành phố UB cầm theo 03 chiếc túi xách cùng một số tài sản để tìm nhà trọ thuê ở. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, Th đến quán ăn của bà Nguyễn Thị Th tại tổ 6, khu NS, phường NKh, thành phố UB để ăn bún. Sau khi ăn xong, Th cầm chiếc điện thoại màu trắng nhãn hiệu Massgo-Vi2S (đã hỏng) của mình lau chùi, thấy vậy bà Th có nói với Thắng về việc chiếc điện thoại Iphone 5S màu trắng có ốp lưng màu đen có dòng chữ Adidas của mình bị hỏng nút Home, không mở được và nhờ Th xem có sửa được không. Th cầm chiếc điện thoại của bà Th kiểm tra thì được bà Th đồng ý, Thắng cầm điện thoại xem, còn bà Th đi xuống bếp để dọn dẹp. Do không có tiền tiêu sài, Th nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại trên. Th tháo chiếc ốp điện thoại của bà Th ra lau để lên bàn ăn rồi giữ lại chiếc điện thoại trên. Th tiếp tục cầm chiếc điện thoại nhãn hiệu Massgo-Vi2S của mình cùng với sạc bảo với bà Th nhờ cắm sạc ở đầu giường ngủ quán ăn để tạo lòng tin và để lại 02 chiếc túi xách, trong đó 01 túi không có gì và 01 túi có quần áo. Th đi tìm quán sửa điện thoại để mở khóa điện thoại nhưng không được rồi quay lại quán ăn của bà Th, quan sát thấy không có ai nên Th vào quán lấy túi quần áo của mình.

Sau đó, Th đón xe ô tô khách đi thành phố Hải Phòng, đến cửa hàng Điện máy xanh ở số 279 Trần Nguyên Hãn, phường NghX, quận LCh, thành phố Hải Phòng. Th mua 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Mobistar để sử dụng, còn chiếc điện thoại Iphone 5S Th nhờ anh Nguyễn Công D (sinh năm 1900; trú tại số 61/61, Phương Lưu, phường VM, quận NgQ, thành phố Hải Phòng - là nhân viên cửa hàng) mở khóa chiếc điện thoại trên với mục đích bán lấy tiền tiêu sài và không trả lại cho bà Thành. Anh D cầm chiếc điện thoại trên, bấm mật khẩu là 9999 thì mở được máy, thấy trong máy có nhiều cuộc gọi nhỡ là “con gái”, anh nhìn qua ảnh nền điện thoại và bộ sưu tập thì không có ảnh của Th. Nghi ngờ điện thoại do trộm cắp, anh bí mật lấy số điện thoại của người có tên danh bạ là “con gái” rồi nhắn tin thì được người này thông báo là đang báo công an đến.

Cùng thời gian này, bà Th phát hiện chiếc điện thoại của mình chỉ còn chiếc ốp lưng điện thoại. Biết là chiếc điện thoại đã bị người thanh niên chiếm đoạt nên bà Th đã kể lại sự việc trên cho anh Trần Minh T (sinh năm 1993 - con trai bà Th) biết. Anh T đã sử dụng máy tính dùng định vị xác định được chiếc điện thoại trên đang ở số 279 Trần Nguyên Hãn, phường NghX, quận LCh, thành phố Hải Phòng nên đã gọi điện thoại báo cho Công an phường NghX biết. Công an phường NghX đã thành lập tổ công tác đến cửa hàng Điện máy xanh trên để kiểm tra, mời Th về trụ sở công an phường NghX làm việc, thu giữ 01 chiếc điện thoại Iphone 5S màu trắng cùng một số đồ vật, tài sản khác của Th. Tại đây, Th thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 102 ngày 30/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố UB kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S, màu trắng, nút Home trên máy không sử dụng được, máy cũ đã qua sử dụng có giá trị 1.000.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 22/CT-VKSUB ngày 23/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố Phạm Văn Th về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị:

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn Th từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 30/11/2018.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 BLTTHS: trả lại bị cáo 01 chiếc túi màu đen kích thước (14x39,5x30)cm có quai xách màu đen; 01 dây điện thoại màu đen dài 104cm, trên thân củ sạc có chữ Intel; 01 điện thoại di động Masstel A103 màu đen; 01 điện thoại di động Nokia màu đen; 01 điện thoại di động Mobistar B310 màu trắng xám; 01 chiếc máy tính xách tay màu xám nhãn hiệu Lenovo; 01 điện thoại Massgo-Vi2S màu trắng (màn hình bị vỡ, không lên nguồn).

Tại phiên tòa, bị cáo nhận tội và thừa nhận: Việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại bà Nguyễn Thị Th và những người làm chứng anh Nguyễn Công D, Trần Minh T có lời khai trong quá trình điều tra cơ bản phù hợp với lời khai bị cáo Phạm Văn Th trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội đối với bị cáo:

Li khai của bị cáo Phạm Văn Th tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của bị hại, những người làm chứng và nội dung biên bản sự việc, biên bản làm việc, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận định giá và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 29/11/2018, tại quán ăn của bà Nguyễn Thị Th ở tổ 6, khu Nam Sơn, phường NKh, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh, Phạm Văn Th (đã có tiền án về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” chưa được xóa án tích) đã lợi dụng niềm tin của bà Th khi nhờ Th sửa chiếc điện thoại Iphone 5S màu trắng trị giá 1.000.000đ (Một triệu đồng) của bà Th rồi chiếm đoạt. Sau đó Th đem chiếc điện thoại trên đến cửa hàng Điện máy xanh ở số 279, Trần Nguyên Hãn, phường NghX, quận LCh, thành phố Hải Phòng để mở mật khẩu với mục đích bán lấy tiền tiêu sài thì bị lực lượng Công an phường NghX phát hiện, bắt giữ.

Bị cáo là người thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, tuy biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do bản tính lười lao động, muốn biến tài sản của người khác thành tài sản của mình qua con đường bất hợp pháp nên bị cáo đã lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản và niềm tin của bà Nguyễn Thị Th, để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản, đây là một trong những quyền được pháp luật Nhà nước bảo vệ, làm mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo Th phạm tội dưới 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) nhưng bị cáo Th đã có tiền án về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” chưa được xóa án tích, do đó hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Văn Th đã phạm vào tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự; như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo cần có một hình phạt nghiêm, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để rèn luyện, giáo dục bị cáo sửa chữa lỗi lầm của bản thân để trở thành công dân tốt. Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều phạm tội và bị xét xử, có 02 tiền án đến nay chưa được xóa án tích, tiếp tục phạm tội mới, với lỗi cố ý thuộc trường hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 175 của Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đ (Mười triệu đồng) đến 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo Phạm Văn Th không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với: 01 chiếc điện thoại Iphone 5S màu trắng; 01 ốp lưng điện thoại màu đen có chữ Adidas, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị Th, nên không đề cập xử lý.

- Đối với: 01 chiếc túi màu đen kích thước (14x39,5x30)cm có quai xách màu đen; 01 dây điện thoại màu đen dài 104cm, trên thân củ sạc có chữ Intel; 01 điện thoại di động Masstel A103 màu đen; 01 điện thoại di động Nokia màu đen;

01 điện thoại di động Mobistar B310 màu trắng xám; 01 chiếc máy tính xách tay màu xám nhãn hiệu Lenovo; 01 điện thoại Massgo-Vi2S màu trắng, màn hình bị vỡ, không lên nguồn, thu giữ của bị cáo, xét thấy đây là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

1. Tuyên bố: bị cáo Phạm Văn Th phạm tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Xử phạt: bị cáo Phạm Văn Th 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 30/11/2018.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng: khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả bị cáo 01 chiếc túi màu đen kích thước (14x39,5x30)cm có quai xách màu đen; 01 dây điện thoại màu đen dài 104cm, trên thân củ sạc có chữ Intel; 01 điện thoại di động Masstel A103 màu đen; 01 điện thoại di động Nokia màu đen; 01 điện thoại di động Mobistar B310 màu trắng xám; 01 chiếc máy tính xách tay màu xám nhãn hiệu Lenovo; 01 điện thoại Massgo-Vi2S màu trắng, màn hình bị vỡ, không lên nguồn. (Tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng, hồi 14 giờ, ngày 29 tháng 01 năm 2019 giữa Công an thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh).

4. Về án phí: Áp dụng: khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Phạm Văn Thắng phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) vào ngân sách Nhà nước.

5. Về Quyền kháng cáo: Áp dụng: Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày (mười lăm), kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:22/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;