Bản án 22/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 03/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Lương Ngọc T (tên gọi khác: không), sinh ngày 27 tháng 12 năm 1983 tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nơi ĐKNKTT: bản M, xã M, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; chỗ ở hiện nay: Tiểu khu N, xã H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Lương Ngọc T, sinh năm 1949 và bà Lương Thị B, sinh năm 1950; bị cáo có vợ là chị Hoàng Diệu T, sinh năm 1987 và 01 con sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” từ ngày 14/12/2018 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1. Ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La; Địa chỉ: Tổ X, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

Đại diện theo ủy quyền: ông Cao Viết T – Chức vụ: Phó giám đốc; Có ý kiến xin xét xử vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Trung D, sinh năm 1992 – Trú tại: Tổ 09, phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Có ý kiến xin xét xử vắng mặt.

3. Anh Phí Đình T, sinh năm 1989 – Trú tại: Tổ 05, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Có ý kiến xin xét xử vắng mặt.

4. Anh Ngô Quốc T, sinh năm 1992 – Trú tại: Tổ 03, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Có mặt.

5. Chị Nguyễn Thu H, sinh năm 1992 – Trú tại: Tổ 03, phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Có ý kiến xin xét xử vắng mặt.

6. Anh Trần Văn Q, sinh năm 1977 – Trú tại: Tổ 03, phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Có ý kiến xin xét xử vắng mặt.

7. Chị Nguyễn Phương C, sinh năm 1991 – Trú tại: Tổ 03, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Có mặt.

8. Chị Lò Thị Yến M, sinh năm 1992 – Trú tại: Tổ 06, phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Có ý kiến xin xét xử vắng mặt.

9. Anh Lò Văn H, sinh năm 1973 – Trú tại: Tổ 11, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Có ý kiến xin xét xử vắng mặt.

10. Anh Vương Cao S, sinh năm 1989 – Trú tại: Tiểu khu B, thị trấn T, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Vũ Cao Q, sinh năm 1987 – Trú tại: Tiểu khu A, thị trấn H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; Có ý kiến xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ti ngày 26/11/2018, Lương Ngọc T ăn cơm, uống rượu tại nhà anh Phạm Văn B, sinh năm 1981 ở chợ cấp II, Noong Đúc thuộc tổ 02, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La. Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 27/11/2018, T điều khiển xe ô tô Kia Morning màu trắng, biển kiểm soát 26A - 055.32 từ nhà anh B lên trung tâm thành phố Sơn La, khi đi đến trụ sở Ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La tại tổ 12, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La (BQLDA), T nảy sinh ý định vào trong trụ sở BQLDA để trộm cắp tài sản bán lấy tiền chi tiêu.

ơng Ngọc T đỗ xe ô tô ven đường dân sinh gần BQLDA, sau đó lấy 01 chiếc kìm cộng lực hiệu Meinfa trong cốp xe, T cầm kìm trèo qua cổng sắt vào bên trong sân, thấy cửa chính của trụ sở có khóa, T dùng kìm cắt khóa cửa rồi đi thẳng lên tầng 3, tới phòng kỹ thuật (cửa phòng không khóa), T thấy trên bàn làm việc để 02 chiếc máy tính xách tay là tài sản riêng của nhân viên BQLDA để lại trụ sở, gồm:

- 01 chiếc máy tính hiệu Asus K555L-XX1086D, kèm 01 sạc máy tính của anh Nguyễn Trung D, sinh năm 1992 - trú tại: tổ 09, phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

- 01 chiếc máy tính hiệu Dell Inspiron 15R-5537, kèm 01 sạc máy tính, 01 chuột máy tính Newmen màu đỏ, 01 túi xách màu xanh hiệu Thủ đô vàng của anh Phí Đình T, sinh năm 1989 - trú tại: tổ 05, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

Sau đó, T cho 02 chiếc máy tính xách tay này cùng chuột và sạc pin máy tính cho vào túi đựng máy tính hiệu Thủ đô vàng rồi đi xuống tầng 2 của trụ sở, thấy các phòng làm việc đều không khóa cửa, T tiếp tục đi vào các phòng, lấy thêm 07 chiếc máy tính xách tay và một số tài sản khác là tài sản riêng của nhân viên BQLDA để lại trụ sở, gồm:

- 01 chiếc máy tính hiệu Asus X407UA, kèm 01 sạc pin máy tính, 01 chuột máy tính hiệu Eblu, và 01 túi đựng máy tính màu đen hiệu Thủ đô vàng của anh Ngô Quốc T, sinh năm 1992 - trú tại: tổ 03, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

- 01 chiếc máy tính hiệu Asus K56CB-X0299, kèm 01 sạc pin máy tính và 01 chuột máy tính hiệu Fuhlen A09B của chị Nguyễn Thu H, sinh năm 1992 - trú tại: tổ 03, phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

- 01 chiếc máy tính hiệu Dell Inspiron 155559, kèm 01 sạc pin máy tính, 01 chuột máy tính hiệu PMW, 01 túi xách giả da màu nâu vàng hiệu Ladoda, 01 quyển sổ Classic AK8 của anh Trần Văn Q, sinh năm 1977 - trú tại: tổ 03, phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

- 01 chiếc máy tính hiệu Toshiba E45T-A4100, kèm 01 sạc pin máy tính, kèm 01 chuột máy tính FuhlenL102 của chị Nguyễn Phương C, sinh năm 1991 - trú tại: tổ 03, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

- 01 chiếc máy tính hiệu HP CND631431H, kèm 01 sạc máy tính, 01 chuột máy tính hiệu FuhlenL102, 01 túi xách hiệu HP của chị Lò Thị Yến M, sinh năm 1992 - trú tại: tổ 06, phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

- 01 chiếc máy tính hiệu Asus TP501UA-DN024T, kèm 01 sạc máy tính, 01 chuột hiệu Fuhlen L102, 01 túi xách Woles King LeatherR của anh Lò Văn H, sinh năm 1973 - trú tại: tổ 11, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

- 01 chiếc máy tính hiệu HP Elitebook-8540w, kèm 01 sạc máy tính của anh Vương Cao S, sinh năm 1989 - trú tại: Tiểu khu B, thị trấn T, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.

Ngoài ra bị cáo còn lấy một số tài sản khác của BQLDA, gồm:

- 01 tivi hiệu Sky Worth 49s310;

- 01 màn hình máy tính hiệu Samsung B1930N;

- 01 máy in hiệu Canon 2900, 01 dây HDMI dài 1m6.

Sau khi lấy được tài sản, T mang số tài sản vừa trộm cắp được cùng chiếc kìm cộng lực Meinfa ra xe ô tô, biển kiểm soát 26A-055.32 rồi điều khiển xe đi đến nhà em trai là Lương Ngọc T1, sinh năm 1985 - trú tại: bản M, xã M, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, T mang vào nhà T1 gửi 01 máy in hiệu Canon 2900, 01 màn hình máy tính hiệu Samsung B1930N, nhưng không nói với T1 nguồn gốc tài sản trên, số tài sản còn lại, T mang đến nhà chị gái là Lương Hồng N – trú tại: Tiểu khu 11, thị trấn H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, cất giấu tại gác xép, khi nhà chị N không có ai ở nhà (trước đó, T được chị N giao cho một chiếc chìa khóa nhà để đi lại, sinh hoạt trong gia đình nên đã dùng chìa khóa này mở cửa nhà chị N và cất giấu tài sản trộm cắp được).

Sáng ngày 03/12/2018, Lương Ngọc T điện thoại cho người quen là anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1985 - trú tại: bản C, xã P, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La nói là mình có chiếc máy tính xách tay mua 14.000.000,đ, nếu anh M muốn mua thì T bán lại 10.000.000,đ và T sẽ mang đến nhà cho dùng thử, nếu ưng thì trả tiền sau, anh M đồng ý. Cùng ngày, T đến nhà chị N lấy 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Dell Inspiron 15R-5537, 01 chuột hiệu Fuhlen L102, 01 túi xách Woles King Leather rồi mang đến nhà anh M đưa cho chị Phạm Thị O, sinh năm 1985 (vợ anh M).

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 06/12/2018, Lương Ngọc T đến nhà chị N lấy chiếc máy tính xách tay hiệu Toshiba E45T-A4100, kèm 01 sạc pin máy tính, sau đó mang đến Trung tâm máy tính Q tại Tiểu khu A, thị trấn H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La bán cho anh Vũ Cao Q, sinh năm 1987 (chủ Trung tâm máy tính Q) với giá 4.500.000,đ, khi trao đổi mua bán, T nói với anh Q, chiếc máy tính trên là của T, do không có nhu cầu sử dụng nên bán đi. Số tiền bán máy tính, T đã chi tiêu cá nhân hết.

Sau khi phát hiện mất tài sản, ngày 27/11/2018, anh Cao Viết T là phó giám đốc đại diện theo ủy quyền của Ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La, có đơn trình báo về việc mất tài sản.

Hi 14 giờ 00 phút ngày 06/12/2018, Lương Ngọc T đến Công an thành phố Sơn La đầu thú, đồng thời khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Quá trình điều tra bị cáo Lương Ngọc T đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Trên cơ sở lời khai của Lương Ngọc T, ngày 06/12/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã tiến hành truy thu vật chứng tại gác xép nhà chị Lương Hồng N – trú tại: Tiểu khu 11, thị trấn H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, gồm: 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Asus K555L-XX1086D, kèm 01 sạc máy tính; 01 chuột máy tính Newmen màu đỏ; 01 túi xách màu xanh hiệu Thủ đô vàng; 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Asus X407UA, kèm 01 sạc pin máy tính, 01 chuột máy tính hiệu Eblu, 01 túi đựng máy tính màu đen hiệu Thủ đô vàng; 01 chiếc máy tính xách tay Asus K56CB-X0299, kèm 01 sạc pin máy tính và 01 chuột máy tính hiệu Fuhlen A09B; 01 chiếc Dell Inspiron 155559, kèm 01 sạc pin máy tính, 01 chuột máy tính hiệu PMW, 01 túi xách giả da màu nâu vàng, hiệu Ladoda, 01 quyển sổ Classic AK8; 01 chiếc máy tính xách tay hiệu HP CND631431H, kèm 01 sạc máy tính; 01 chiếc máy tính hiệu Asus TP501UA-DN024T, kèm 01 sạc máy tính; 02 chuột máy tính hiệu FuhlenL102, 01 túi xách hiệu HP; 01 chiếc máy tính xách tay HP Elitebook-8540w, kèm 01 sạc máy tính và 01 tivi hiệu Sky Worth 49s310, 01 màn hình máy tính hiệu Samsung B1930N, 01 máy in hiệu Canon 2900, 01 dây HDMI dài 1m6; 04 cục pin Panasonic.

Hi 17 giờ 00 phút ngày 06/12/2018, tại Công an thành phố Sơn La, chị Phạm Thị O giao nộp: 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Dell Inspiron 15R-5537, 01 chuột hiệu Fuhlen LI02, 01 túi xách Woles King LeatherR; anh Lương Ngọc Thắng giao nộp: 01 máy in hiệu Canon 2900, 01 màn hình máy tính hiệu Samsung B1930N; anh Vũ Cao Q giao nộp: 01 máy tính xách tay hiệu Toshiba E45T-A4100, kèm 01 sạc pin máy tính.

Ngày 10/12/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La ra Quyết định trưng cầu định giá tài sản đối với số tài sản Lương Ngọc T chiếm đoạt của Ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La.

Ti Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 45/KL-HĐĐGTS ngày 14/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản - UBND thành phố Sơn La, kết luận:

- 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Asus K555L-XX1086D, kèm 01 sạc máy tính, giá trị 3.400.000,đ;

- 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Dell Inspiron 15R-5537, kèm 01 sạc máy tính, giá trị 4.200.000,đ;

- 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Asus X407UA, kèm 01 sạc pin máy tính, giá trị 3.200.000,đ;

- 01 chiếc máy tính xách tay Asus K56CB-X0299, kèm 01 sạc pin máy tính, giá trị 3.200.000,đ;

- 01 chiếc máy tính xách tay Dell Inspiron 155559, kèm 01 sạc pin máy tính, giá trị 4.700.000,đ;

- 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Toshiba E45T-A4100, kèm 01 sạc pin máy tính, giá trị 3.000.000,đ;

- 01 chiếc máy tính xách tay hiệu HP CND631431H, kèm 01 sạc máy tính, giá trị 2.200.000,đ;

- 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Asus TP501UA-DN024T, kèm 01 sạc máy tính, trị giá 5.200.000,đ;

- 01 chiếc máy tính xách tay HP Elitebook-8540w, kèm 01 sạc máy tính, giá trị 3.400.000,đ;

- 01 tivi hiệu Sky Worth49s310, giá trị 5.000.000,đ;

- 01 màn hình máy tính hiệu Samsung B1930N, giá trị 600.000,đ; 01 máy in hiệu Canon 2900, giá trị 1.000.000,đ;

- 01 dây HDMI dài 1m6, giá trị 40.000,đ;

- 01 quyển sổ Classic AK8, giá trị 25.000,đ;

- 01 túi xách giả da màu nâu vàng, hiệu Ladoda, giá trị 300.000,đ;

- 01 túi xách Woles King Leather, giá trị 100.000,đ;

- 01 túi xách màu xanh hiệu Thủ đô vàng, giá trị 150.000,đ;

- 01 túi xách hiệu HP, giá trị 100.000,đ;

- 01 túi đựng máy tính màu đen hiệu Thủ đô vàng, giá trị 150.000,đ;

- 01 chuột máy tính hiệu Eblu, giá trị 40.000,đ;

- 01 chuột máy tính Newmen màu đỏ, giá trị 40.000,đ;

- 03 chuột máy tính hiệu Fuhlen L102, giá trị 120.000,đ (40.000,đ/chiếc);

- 01 chuột máy tính hiệu Fuhlen A09B, giá trị 50.000,đ;

- 01 chuột máy tính hiệu PMW, giá trị 40.000đ.

Tng giá trị tài sản bị cáo Lương Ngọc T chiếm đoạt là 40.255.000,đ (Bốn mươi triệu hai trăm năm mươi lăm nghìn đồng).

Do có hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số: 03/KSĐT ngày 03/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Lương Ngọc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại phiên toà vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lương Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Lương Ngọc T từ 24 đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp luật.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tch thu tiêu hủy: 01 (Một) chiếc kìm cộng lực nhãn hiệu MEINFA màu đen dài khoảng 75cm; 01 (Một) chiếc túi xách màu đen nhãn hiệu WOLVES KING LEATHER ®; 01 (Một) thanh ngang kim loại hình trụ tròn kích thước 15,5 x1,2cm, một đầu có núm, trên thân ngang có 01 lỗ tròn đường kính 01cm; 01 (Một) ổ khóa bằng kim loại nhãn hiệu LOCK, phần móc khóa bị cắt, có hai mặt cắt, bề mặt sắc gọn.

Trả lại cho bị cáo Lương Ngọc T: 01 (Một) chiếc bao tải dứa màu trắng; 01 (Một) chiếc tua vít nhãn hiệu HUAIUETOOLS dài khoảng 30cm; 01 (Một) chiếc búa đinh nhãn hiệu Đắc Chới CLCS01 2012/DC màu nâu đỏ dài khoảng 28cm; 01 (Một) chiếc dao cắt kính nhãn hiệu OIL GLASS CUTTEER NS 100 Made In Japan; 01 (Một) chiếc tai nghe màu đen; 01 (Một) đôi găng tay màu đen, cổ xám; 01 (Một) chiếc vỏ phần mềm diệt Viruts BKAV; 04 (Bốn) cục pin Panasonic.

Về trách nhiệm dân sự:

Chp nhận việc các bị hại Ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La, anh Nguyễn Trung D, anh Phí Đình T, anh Ngô Quốc T, chị Nguyễn Thu H, anh Trần Văn Q, chị Nguyễn Phương C, chị Lò Thị Yến M, anh Lò Văn H, anh Vương Cao S đã nhận lại được tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Chp nhận việc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Vũ Cao Q không yêu cầu bị cáo bồi thường trách nhiệm dân sự.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Ti phiên tòa: Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết quả định giá tài sản; nhất trí với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát; nhất trí với bản luận tội cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phần tranh luận; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

c bị hại anh Ngô Quốc T, chị Nguyễn Phương C, anh Vương Cao S đã nhận được tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Anh Vương Cao S có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về hoạt động điều tra, truy tố, đồng thời đã giải thích, tạo điều kiện để bị cáo và những người tham gia tố tụng khác thực hiện đúng, đủ các quyền và nghĩa vụ của họ. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

c bị hại Ban quản lý dự án đầu tư các công trình nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Sơn La, anh Nguyễn Trung D, anh Phí Đình T, chị Nguyễn Thu H, anh Trần Văn Q, chị Lò Thị Yến M, anh Lò Văn H và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Vũ Cao Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa (tống đạt trực tiếp) nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, việc vắng mặt của những các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 27/11/2018, tại tổ 12, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, Lương Ngọc T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 09 chiếc máy tính xách tay cùng một số phụ kiện kèm theo của các bị hại anh Nguyễn Trung D, anh Phí Đình T, anh Ngô Quốc T, chị Nguyễn Thu H, anh Trần Văn Q, chị Nguyễn Phương C, chị Lò Thị Yến M, anh Lò Văn H, anh Vương Cao S là nhân viên của Ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La và 01 tivi hiệu Sky Worth 49s310; 01 màn hình máy tính hiệu Samsung B1930N; 01 máy in hiệu Canon 2900 và 01 dây HDMI dài 1m6 của Ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 40.255.000,đ (Bốn mươi triệu hai trăm năm mươi lăm nghìn đồng).

Ti phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Lời khai nhận tội của bị cáo cùng vật chứng thu giữ;

- Đơn trình báo, lời khai của các bị hại Ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La, anh Nguyễn Trung D, anh Phí Đình T, anh Ngô Quốc T, chị Nguyễn Thu H, anh Trần Văn Q, chị Nguyễn Phương C, chị Lò Thị Yến M, anh Lò Văn H, anh Vương Cao S;

- Lời khai của người liên quan anh Lương Ngọc T1, chị Lương Hồng N, anh Nguyễn Văn M, chị Phạm Thị O, anh Vũ Cao Q;

- Biên bản kham nghiêm hiện trường ngày 27/11/2018 tại Tổ 12, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La; Sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường; Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú;

- Biên bản, Sơ đồ truy tìm vật chứng cùng bản ảnh hiện trường truy tìm vật chứng;

- Các biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu;

- Biên bản họp hội đồng định giá tài sản ngày 14/12/2018; Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 45/KL-HĐĐGTS ngày 14/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản - UBND thành phố Sơn La;

Li khai nhận tội của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra cùng vật chứng thu giữ, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ các căn cứ trên đã có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Lương Ngọc T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tôi phạm va hinh phat đươc quy đinh tai Điêu 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Lợi dụng sơ hở của những người bị hại , bị cáo Lương Ngọc T đã bất chấp pháp luật thực hiện hành vi phạm tội, giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là 40.255.000,đ (Bốn mươi triệu hai trăm năm mươi lăm nghìn đồng), vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Hi đồng xét xử xét thấy: tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của những người bị hại, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo có đầy đủ hiểu biết, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Do đó cần lên mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo Lương Ngọc T chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lương Ngọc T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lương Ngọc T phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi xảy ra sự việc, ngày 06/12/2018 bị cáo đã đến cơ quan công an đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình; quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo và gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người liên quan anh Vũ Cao Q; các bị hại Ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La, chị Nguyễn Thu H, anh Phí Đình T, anh Nguyễn Trung D, anh Vương Cao S có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo.

Bị cáo Lương Ngọc T có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Sau khi bị bắt, bị cáo ăn năn hối cải, có khả năng tự cải tạo. Xét thấy, bị cáo có đủ điều kiện cho hưởng án treo, không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, căn cứ khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân nơi cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015: HĐXX xét thấy bị cáo có thu nhập, tài sản nên cần áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[6] Vật chứng vụ án:

Đối với vật chứng gồm 09 (chín) chiếc máy tính xách tay, đã qua sử dụng, 05 (năm) chiếc túi xách, 07 (bảy) chuột máy tính, 01 (một) tivi nhãn hiệu Sky Worth, 01 (một) máy in nhãn hiệu Canon LBP2900; 01 (một) màn hình máy tính nhãn hiệu Samsung, 01 (một) dây HDMI; 01 (một) quyển sổ màu xanh nhãn hiệu Classic AK8 đã được thu hồi ngay sau khi bị cáo đầu thú: Quá trình điều tra xác định các tài sản trên là tài sản hợp pháp của Ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La và chị Nguyễn Thu H, chị Lò Thị Yến M, chị Nguyễn Phương C, anh Nguyễn Trung D, anh Ngô Quốc T, anh Phí Đình T, anh Trần Văn Q, anh Lò Văn H, anh Vương Cao S là nhân viên ban quản lý dự án. Do đó, ngày 24/12/2018 Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Sơn La đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả tài sản trên cho Ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La, chị Nguyễn Thu H, chị Lò Thị Yến M, chị Nguyễn Phương C, anh Nguyễn Trung D, anh Ngô Quốc T, anh Trần Văn Q, anh Phí Đình T, anh Lò Văn H, anh Vương Cao S để tiếp tục quản lý sử dụng theo quy định của pháp luật.

Đối với 01 (một) chiếc kìm cộng lực nhãn hiệu MEINFA màu đen, đã qua sử dụng, thu giữ trong quá trình truy tìm vật chứng: Quá trình điều tra xác định đây là tài sản của bị cáo Lương Ngọc T. Bị cáo T đã sử dụng chiếc kìm trên để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) thanh ngang bằng kim loại hình trụ tròn có kích thước 15,5cm x l,2cm một đầu có núm, trên thân ngang có 01 lỗ tròn đường kính 01cm; 01 (một) khóa bằng kim loại nhãn hiệu Lock, phần móc khóa bị cắt, có hai mặt cắt, bề mặt sắc gọn thu giữ trong quá trình khám nghiệm hiện trường:

Quá trình điều tra xác định đây là tài sản của ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La, tuy nhiên các vật này đều đã hư hỏng, không có giá trị sử dụng. Ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La không có ý kiến xin lại tài sản và đề nghị tiêu hủy nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) chiếc bao tải dứa màu trắng, 01 (một) chiếc tua vít nhãn hiệu HUAIUETOOLS; 01 (một) chiếc búa đinh nhãn hiệu Đắc Chới CLCS 01 2012/DC màu nâu đỏ; 01 (một) con dao cắt kính nhãn hiệu OILGLASS CUTTEENS 100 made in Japan; 01 (một) tai nghe màu đen; 01 (một) đôi găng tay màu đen, cổ xám, đã qua sử dụng; 01 (một) vỏ phần mềm diệt virut BKAV;

04 (bốn) cục pin Panasonic thu giữ trong quá trình truy tìm vật chứng: Quá trình điều tra xác định số đồ vật tài sản trên là tài sản của bị cáo Lương Ngọc T, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 (một) chiếc túi xách màu đen, nhãn hiệu Wolves King LEATHER®, đã qua sử dụng, thu giữ của chị Phạm Thị O: Quá trình điều tra xác định đây là tài sản của bị cáo Lương Ngọc T, bị cáo T sử dụng để đựng tài sản chiếm đoạt được của các bị hại và đưa cho chị O nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe ô tô Kia Moming màu trắng, biển kiểm soát 26A - 055.32, quá trình điều tra, truy tố xác định: Năm 2017, Lương Ngọc T không có việc làm, chị Hoàng Diệu T2 (là vợ của T) làm nghề kinh doanh, cần phương tiện đi lại, nên chị T2 đã mua xe ô tô trả góp, đồng thời làm thủ tục thế chấp để vay tiền tại ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt, đến nay chiếc xe vẫn đang thuộc diện thế chấp tại Ngân hàng và chị T2 đang trả dần tiền gốc và lãi hàng tháng. Việc bị cáo Lương Ngọc T sử dụng xe để làm phương tiện phạm tội, chị T2 không biết, không tham gia. Do vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không tạm giữ chiếc xe trên.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

c bị hại Ban quản lý dự án đầu tư Z - tỉnh Sơn La, anh Nguyễn Trung D, anh Phí Đình T, anh Ngô Quốc T, chị Nguyễn Thu H, anh Trần Văn Q, chị Nguyễn Phương C, chị Lò Thị Yến M, anh Lò Văn H, anh Vương Cao S đều đã nhận lại được tài sản và không yêu câu bi cao bôi thương gi thêm nên HĐXX không xem xét.

Ngày 25/12/2018, chị Hoàng Diệu T2 (vợ của bị cáo Lương Ngọc T) đã thay mặt bị cáo hoàn trả số tiền 4.500.000,đ cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Vũ Cao Q. Anh Vũ Cao Q không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét.

[8] Đối với anh Nguyễn Văn M, chị Phạm Thị O, anh Vũ Cao Q, anh Lương Ngọc T1 và chị Lương Hồng N: Quá trình điều tra, truy tố xác định, khi bán và gửi tài sản do trộm cắp mà có, Lương Ngọc T không nói về nguồn gốc của tài sản, anh M, chị O, anh Q, anh T1, chị N không biết, không tham gia, không có yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ khoản 1, khoản 5 Điều 173; điểm b, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Lương Ngọc T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lương Ngọc T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 03/4/2019).

Giao bị cáo Lương Ngọc T về nơi thường trú Uỷ ban nhân dân xã H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách, trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Pht bổ sung đối với bị cáo Lương Ngọc T 5.000.000đ (năm triệu đồng).

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tch thu tiêu hủy: 01 (Một) chiếc kìm cộng lực nhãn hiệu MEINFA màu đen dài khoảng 75cm, đã qua sử dụng; 01 (Một) chiếc túi xách màu đen nhãn hiệu WOLVES KING LEATHER ®, qua sử dụng; 01 (Một) thanh ngang kim loại hình trụ tròn kích thước 15,5 x1,2cm, một đầu có núm, trên thân ngang có 01 lỗ tròn đường kính 01cm, đã qua sử dụng; 01 (Một) ổ khóa bằng kim loại nhãn hiệu LOCK, phần móc khóa bị cắt, có hai mặt cắt, bề mặt sắc gọn.

Trả lại cho bị cáo Lương Ngọc T: 01 (Một) chiếc bao tải dứa màu trắng đã qua sử dụng; 01 (Một) chiếc tua vít nhãn hiệu HUAIUETOOLS dài khoảng 30cm, đã qua sử dụng; 01 (Một) chiếc búa đinh nhãn hiệu Đắc Chới CLCS01 2012/DC màu nâu đỏ dài khoảng 28cm, đã qua sử dụng; 01 (Một) chiếc dao cắt kính nhãn hiệu OIL GLASS CUTTEER NS 100 Made In Japan, đã qua sử dụng;

01 (Một) chiếc tai nghe màu đen, đã qua sử dụng; 01 (Một) đôi găng tay màu đen, cổ xám, qua sử dụng; 01 (Một) chiếc vỏ phần mềm diệt Viruts BKAV; 04 (Bốn) cục pin Panasonic.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/3/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, Điều 585, khoản 1 Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Chp nhận việc các bị hại Ban quản lý dự án đầu tư các công trình nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Sơn La, anh Nguyễn Trung D, anh Phí Đình T, anh Ngô Quốc T, chị Nguyễn Thu H, anh Trần Văn Q, chị Nguyễn Phương C, chị Lò Thị Yến M, anh Lò Văn H, anh Vương Cao S đều đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường trách nhiệm dân sự.

Chp nhận việc gia đình bị cáo Lương Ngọc T đã tự nguyện bồi thường cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Vũ Cao Q số tiền 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng), anh Vũ Cao Q không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo Lương Ngọc T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Lương Ngọc T, các bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 03/4/2019);

c bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:22/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;