Bản án 22/2018/HS-ST ngày 30/05/2018 về tội vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 22/2018/HS-ST NGÀY 30/05/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI

Trong ngày 30 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2018, đối với bị cáo:

Huỳnh Thị N, sinh năm 1959, tại T, Đồng Tháp; Nơi cư trú và chỗ ở: Ấp M, xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn T (chết) và bà Nguyễn Thị N (chết); chồng Trần Văn V, có 03 con, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất sinh năm 1996.

Tiền án, tiền sự: không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 23/01/2018 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 23/01/2018, Công an huyện A phối hợp cùng Công an thị trấn L tuần tra đến khu vực ấp T, thị trấn L, huyện A thì phát hiện Huỳnh Thị N đi đò từ Campuchia về Việt Nam có dấu hiệu nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện túi xách N mang theo bên trong có 139.000.000 đồng. Nên lực lượng tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với N cùng tang vật.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 09 giờ 30 ngày 23/01/2018, N thuê xe ôtô đi từ nhà ấp M, xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp đến khu vực ấp T, thị trấn L, huyện A để sang đò qua Campuchia đánh bạc. Khi đi N mang theo túi xách bên trong có 141.000.000 đồng, nhưng không làm thủ tục khai báo theo đúng quy định. Đến khoảng 15 giờ 45 cùng ngày, N sang đò về lại Việt Nam thì bị bắt quả tang. Số tiền bị bắt quả tang là số tiền N còn thừa lại sau khi đánh bạc tại Campuchia.

Ngày 01/02/2018, Huỳnh Thị N bị khởi tố điều tra.

Căn cứ Kết luận giám định số 72/KLGT-PC54 ngày 31/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang xác định: 278 tờ tiền polymer mệnh giá 500.000 Việt Nam đồng cần giám định là tiền thật.

Cáo trạng số: 17/VKS-HS ngày 13 tháng 4 năm 2018 truy tố bị cáo Huỳnh Thị N về tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới” theo điểm a khoản 1 Điều 189 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận mục đích sang Campuchia đánh bạc nên sáng ngày 23/01/2018 bị cáo mang theo 141.000.000 đồng nhưng không khai báo theo quy định. Sau khi đánh bạc, đến khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày bị cáo về Việt Nam thì bị phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trong người bị cáo số tiền 139.000.000 đồng.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thị N phạm tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 189; các điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tuyên phạt bị cáo Huỳnh Thị N từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 23/01/2018) và xử lý vật chứng theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về tố tụng: Người làm chứng Lương Công T, Huỳnh Văn T mặc dù đã được tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa nhưng họ đã có lời khai tại Cơ quan điều tra được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Xét việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với những người vắng mặt là phù hợp quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

 [2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện A, tỉnh An Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh An Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [3] Xét tính chất, mức độ vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới” như nội dung vụ án, mục đích là để đánh bạc nhưng bị cáo không làm thủ tục khai báo theo quy định. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp lời khai người làm chứng, các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra và tranh tụng tại phiên tòa.

 [4] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo biết việc vận chuyển tiền qua biên giới là sai nhưng vì mục đích đánh bạc nên bị cáo không khai báo theo quy định.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế về việc lưu thông tiền tệ do Nhà nước quản lý.

 [5] Cáo trạng truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát truy tố bị cáo phạm tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới” và đề nghị mức hình phạt 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù là có căn cứ.

 [6] Từ những căn cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 189 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

 [7] Xét về nhân thân, mức hình phạt:

Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo do phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, bản thân bị cáo trong thời gian bị tạm gian phải nhập viện điều trị bệnh.

Về mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tuy nhiên xét về hành vi phạm tội, tính chất mức độ và nhân thân của bị cáo thấy không cần phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội thêm một thời gian nữa, chỉ cần áp dụng mức hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam cũng đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội, nhằm tạo điều kiện cho bị sớm trở về gia đình, tái hòa nhập cộng đồng, trở thành người có ít cho xã hội.

 [8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo còn có thể phải chịu hành phạt bổ sung là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng nhưng xét hoàn cảnh gia đình bị cáo đang khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [9] Xử lý vật chứng:

- Một túi xách màu nâu, đã qua sử dụng, là vật chứng liên quan trực tiếp đến tội phạm, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Một gói niêm phong bên trong có chứa số tiền 139.000.000 đồng (Một trăm ba mươi chín triệu đồng), bên ngoài có dán giấy niêm phong và có chữ ký của Huỳnh Văn P, Nguyễn Văn H, Huỳnh Thị N và được giáp lai bằng dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện A, là vật chứng liên quan trực tiếp đến tội phạm nên tịch thu toàn bộ sung quỹ Nhà nước.

- Một điện thoại di động hiệu Nokia 225, số Imei: 359769067739349, số Imei: 359769067739356 và một sim số, là tài sản cá nhân không liên quan tội phạm nên trả lại cho bị cáo.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 189; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017);

Căn cứ Điều 328; Điều 136; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Căn cứ Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thị N phạm tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị N 04 (bốn) tháng 07 (bảy) ngày tù, thời hạn từ được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 23/01/2018.

Tuyên bố trả ngay tự do cho bị cáo tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam về một tội phạm khác,

Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy một túi xách màu nâu, đã qua sử dụng;

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 139.000.000 đồng (Một trăm ba mươi chín triệu đồng);

Trả lại cho bị cáo Huỳnh Thị N một điện thoại di động hiệu Nokia 225, số Imei: 359769067739349, số Imei: 359769067739356 và một sim số;

 (Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A và Chi cục Thi hành án dân sự huyện A ngày 09/3/2018)

Về án phí: Buộc bị cáo Huỳnh Thị N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/5/2018), bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử theo trình tự phúc thẩm.

 (Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

462
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2018/HS-ST ngày 30/05/2018 về tội vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới

Số hiệu:22/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;