Bản án 22/2018/HS-ST ngày 28/03/2018 về trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 22/2018/HS-ST NGÀY 28/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18 ngày 23 tháng 02 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07 ngày 06 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L, sinh năm 1989 tại Thanh Hóa. Nơi cư trú: Thôn Thanh L, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ht và bà Lê Thị Tht; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 08 tháng 11 năm 2017 đến ngày 06 tháng 12 năm 2017 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh. Có mặt.

- Bị hại:

Anh Nguyễn Tiến Tr sinh năm 1993; địa chỉ: Xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.Vắng mặt.

Anh Nguyễn Việt D sinh năm 1993; địa chỉ: Xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 11 năm 2017, Nguyễn Văn L thuê phòng trọ của bà Vũ Thi Nh tại thôn P, xã T, huyện T để ở. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 07/11/2017, L phát hiện phòng trọ của anh Nguyễn Tiến Tr, và anh Nguyễn Việt D, quê quán xã cùng khu trọ không có ai trong phòng, lối cửa phụ bằng nhôm kính của phòng trọ không chắc chắn. L đã nảy sinh ý định cạy cửa vào phòng trộm cắp tài sản. L dùng tay vặn ổ khóa làm gẫy ổ khóa cửa phụ phòng của anh Tr và D, L giấu ổ khóa bị gãy vào gầm cầu thang khu trọ rồi tiếp tục đẩy mạnh cánh cửa, mở cửa vào phòng. Thấy trong phòng có 01 máy tính xác tay nhãn hiệu Dell màu xám- đen đặt trên bàn học sinh và 01 máy tính xách tay nhãn hiệu ASUS màu đen trên giường ngủ trong phòng, L đã lấy 02 chiếc máy tính cùng dây sạc rồi thoát ra ngoài theo lối cũ về phòng trọ. Tại đây, L cho 02 chiếc máy tính vào túi vải nylon màu hồng rồi mang cất giấu tại xưởng gỗ của Công ty N giáp với khu trọ.

Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, anh Tr và anh D đi làm về phát hiện bị mất 02 máy tính nên đã trình báo Cơ quan Công an huyện Thủy Nguyên.

Qua rà soát các đối tượng nghi vấn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên đã triệu tập L đến để làm việc. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Văn L đã khai nhận đã lấy 02 máy tính của anh Tr và anh D như trên.

Ngày 08/11/2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thủy Nguyên kết luận: 02 máy tính xác tay nhãn hiệu Dell, ASUS mà L chiếm đoạt của anh Tr và anh D ngày 07/11/2017 trị giá 9.500.000 đồng. Sau khi tiến hành các hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại máy tính cho anh Tr và anh D sử dụng, anh Tr và anh D không có đề nghị gì khác.

Bản cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 05 tháng 02 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng đã truy tố Nguyễn Văn L về tội "Trộm cắp tài sản" theo Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999.
Tại phiên toà Kiểm sát viên luận tội và đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung Cáo trạng đã truy tố: Về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999; Điểm h, i, r, s Khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/06/2017 của Quốc hội có hiệu lực ngày 05/7/2016 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 9 tháng tù đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo. Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân xã Thọ Thanh, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa quản lý giáo dục. Tại Khoản 3 Điều 60 và tại Khoản 5 Điều 138 BLHS quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền, xét thấy bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản, thu nhập nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo.Về vật chứng của vụ án đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo pháp luật.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn nhận được sự khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi lén lút cạy phá cửa phòng trọ, chiếm đoạt 02 máy tính xách tay trị giá 9.500.000 đồng của anh Nguyễn Tiến Tr và anh Nguyễn Việt D vào ngày 07 tháng 11 năm 2017. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 nên chứng cứ xác định không có tội bị loại trừ.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần thiết phải có hành phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thiệt hại gây ra không lớn, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc Tr hợp ít nghiệm trọng và bị cáo tự thú là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, h, i, r Khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015.

[4] Về hình phạt: Với phân tích trên, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, cần phải có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo để giáo dục và phòng ngừa chung. Song bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên có thể cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú để giáo dục quản lý. Tại khoản 5 Điều 138 của BLHS 1999 quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành nên không phạt tiền bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng: 01 túi vải nylon màu hồng, 01 tay nắm khóa cửa nhôm là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn theo
quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138 bộ luật hình sự năm 1999; Điểm s, h, i, r Khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 9 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian thử thách 18 tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Văn L cho Ủy ban nhân dân xã Thọ Thanh, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.Trong Tr hợp người đang chấp hành thời gian thử thách thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:Tịch thu tiêu hủy 01 túi vải màu hồng, 01 tay nắm cửa nhôm kính.(Chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên);

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày bản án được giao cho hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2018/HS-ST ngày 28/03/2018 về trộm cắp tài sản

Số hiệu:22/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;