Bản án 22/2018/HSST ngày 26/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 22/2018/HSST NGÀY 26/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2018/HSST ngày 14/03/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2018/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Anh D – Sinh ngày 10/12/1990 tại thành phố Đà Nẵng - Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Số 57 đường T, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng – Nghề nghiệp: Nhân viên bán hàng - Trình độ văn hóa: 12/12 – Dân tộc: Kinh - Con ông: Nguyễn Văn D và bà Trần Thị Minh D – Gia đình có 2 người con bị cáo là con thứ nhất.

- Tiền án, tiền sự:  Không.

- Bị cáo đang tại ngoại. Có mặt tại phiên toà

* Bị hại: Lê Mạnh T – Sinh ngày: 19/5/1997 – Địa chỉ nơi ĐKHKTT: Xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Chỗ ở hiện tại:   Số 356 đường H, thành phố ĐàNẵng. Vắng mặt không lý do.

* Người chứng kiến:  Hoàng Tâm C – Sinh năm: 1967- Địa chỉ: Số 03 C, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 27/9/2017 Nguyễn Anh D cùng bàn với tên B đi bộ trên đường Đống Đa Đà Nẵng, khi đến trước quán Internet số 269 đường Đống Đa, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng thì phát hiện xe mô tô Yamaha Sirius BKS 48H1 – 122.77 của anh Lê Mạnh T đang dựng phía trước chơi game trong quán. Anh D nói với B “Chiếc xe này dễ ăn ghê” B nói lại “ Bị điên hả”, B bỏ đi trước. D đến gần thấy xe không khoá cổ nên dắt xe đi đem đến tiệm sửa xe T số 03 đường Cao Thắng thành phố Đà Nẵng do anh Hoàng Tâm C làm chủ và nhờ anh C thay ổ khoá nhưng do trời tối nên anh C hẹn hôm sau đến lấy. Lúc 21 giờ cùng ngày khi anh T đi tìm xe, thấy xe đang ở trong tiệm sửa xe Tâm C nên báo Công an phưòng Thạch Thang, quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng.

Đến 14 giờ 30 ngày 28/9/2018 khi D đến tiệm sửa xe để lấy xe thì bị Công an phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng mời về làm việc. Duy đã khai nhận hành vi trộm cắp nêu trên.

Tang vật thu giữ: 01 xe mô tô Yamaha Sirius BKS 48H1–12.277 số máy E3T6B122922, số khung 1710GY081018.

Theo kết luận giám định tài sản số 129/KL-ĐGTS ngày 17/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng kết luận 01 xe mô tô Yamaha Sirius BKS 48H1 – 12.277 cógiá trị 14.000.000đ ( Mười bốn triệu đồng y).

Về trách nhiệm dân sự: Anh Lê Mạnh T đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo D

Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp 01 xe mô tô Yamaha Sirius BKS 48H1 – 12.277 số máy E3T6B122922, số khung 1710GY081018 tại địa chỉ số 269 đường Đống Đa, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phô Đà Nẵng.

Bản cáo trạng số 20/CT-VKS ngày 04/4/2018 của VKSND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng  truy tố bị cáo Nguyễn Anh D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và căn cứ nhân thân, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh D phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Áp dụng khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 điểm i, s khoản 1, 2Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày20/6/2017 của Quốc Hội xử phạt bị cáo từ  đến 09 tháng 12 tù nhưng cho hưởng ántreo.

Phần bồi thường dân sự: Bị hại đã nhận lại xe, không yêu cầu bồi thường gì khác nên không xem xét

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Thưa HĐXX bị cáo đã thấy được hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo và bị cáo rất hối hận, bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quátrình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoăc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định  của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Anh D khai nhận vào lúc 20 giờ ngày 27/9/2017 đã trộm cắp xe mô tô Yamaha Sirius BKS 48H1–12.277 số máy E3T6B122922, số khung 1710GY081018 tại địa chỉ số 269 đường Đống Đa, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phô Đà Nẵng trị giá chiếc xe là 14.000.000đ.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án cũng như quá trình tranh luận tại phiên tòa. Do đó, HĐXX có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Anh D phạm tội “ Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấY

Hành vi trộm cắp 01 xe mô tô Yamaha Sirius BKS 48H1–12.277 số máy E3T6B122922, số khung 1710GY081018 tại địa chỉ số 269 đường Đống Đa, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phô Đà Nẵng của bị cáo là vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm quyền sở hữu đối với tài sản của người khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, nên phải xử lý bị cáo một cách tương xứng với hành vi của bị cáo.

[4] Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo phạm tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, bị cáo lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, người bị hại đã nhận lại tài sản và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS năm 2015.

Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX thống nhất với Viện kiểm sát không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao bị cáo về địa phuơng, gia đình, giám sát, giáo dục cũng có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung được quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Anh Lê Mạnh T đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì thêm nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[7] Án phí HSST: Bị cáo Nguyễn Anh D phải chịu 200.000đ.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015. Áp dụng Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Anh D 12 ( Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 26/4/2018.

Tuyên giao bị cáo Nguyễn Anh D cho Ủy ban nhân dân  phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

2. Án phí HSST: Bị cáo Nguyễn Anh D phải chịu là 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

Án xử công khai, bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

(Đã giải thích chế định án treo)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1027
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2018/HSST ngày 26/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:22/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;