Bản án 22/2018/HS-ST ngày 06/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 22/2018/HS-ST NGÀY 06/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnhTây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2018/TLST-HS, ngày 13 tháng 02 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thanh L, sinh năm 1970 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Ấp Phước L 1, xã Suối Đ, Huyện Dương Minh C, tỉnh Tây Ninh; nơi sinh sống: Khu phố 3, phường 1, thành phố Tây N, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu T (chết) và bà Nguyễn Thị B (chết); vợ tên Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1978, con có 02 người, lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2011; tiền sự: Không có; tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2006/HSST, ngày 19-4-2006 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, chưa nộp tiền án phí 50.000 đồng; tại Bản án hình sự sơ thẩm số 75/2011/HSST, ngày 10- 8-2011 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh áp dụng điểm c khoản 2Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 29-4-2014, chưa nộp tiền án phí 200.000 đồng. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17-11-2017; có mặt.

Về nhân thân: Bản án hình sự số 01, ngày 10-3-1993 của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh áp dụng khoản 1 Điều 155 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo L 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”, đã chấp hành xong; Bản án hình sự số 22, ngày 10-8-1994 của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh áp dụng khoản 1 Điều 155 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo L 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”, đã chấp hành xong; Bản án hình sự số 145/STHS, ngày 28-3-2000 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh áp dụng điểm d khoản 2 Điều 155 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo L 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”, đã chấp hành xong; Bản án hình sự số 105/HSST, ngày 15-4-2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 250 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo L 24 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, bị cáo đã chấp hành xong.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn L1 (tên gọi khác là T), sinh năm 1990 tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký thường trú: Tổ 2, ấp Trà H, xã Trà V, huyện Tân B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: biết viết họ và tên; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh D, sinh năm 1950 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1954; vợ tên Ngô Thị Thu K, sinh năm 1985, con chưa có; tiền sự: Không có; tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2012/HSST, ngày 14-6-2012 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; tạiBản án hình sự phúc thẩm số 143/2012/HSPT, ngày 22-8-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh giữ nguyên bản án sơ thẩm, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày08-10-2015, chưa nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm và án phí hình sự phúc thẩm 600.000 đồng. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17-11-2017; có mặt.

Về nhân thân: Bản án hình sự số 64, ngày 29-4-2009 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo L1 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong; Bản án hình sự số 48, ngày 10-5-2010 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo L1 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong.

3. Họ và tên: Nguyễn Tuấn V (tên gọi khác là M), sinh năm 1980 tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký thường trú: Tổ 4, ấp Thạnh Đ, xã Thạnh T, thành phố Tây N, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Cao Đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C (chết) và bà Trần Thị Á, sinh năm 1940; vợ tên Lê Thị Q, sinh năm 1981 (đã ly hôn) , con có 01 người sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17-11-2017; có mặt.

Bị hại:

. Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1989; nơi cư trú: Ấp Tân T, xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh Tây Ninh; có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Duy T, sinh năm 1974; hộ khẩu thường trú: Số 61/2, đường Xô Viết Nghệ T, phường 21, quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh; chổ ở hiện nay: Ấp Tân T B, xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh Tây Ninh; có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Chị Đinh Thị Thu H, sinh năm 1975; nơi cư trú: Ấp Phước L 1, xã Suối Đ, Huyện Dương Minh C, tỉnh Tây Ninh; có đơn xin xét xử vắng mặt.

4. Ông Đặng Văn C, sinh năm 1964; nơi cư trú: Tổ 3, ấp Tân L, xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh Tây Ninh; có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt  như sau:

Giữa Nguyễn Thanh L, Nguyễn Văn L1 và Nguyễn Tuấn V chỉ là bạn bè quen biết, trong thời gian quen biết nhau L, L1 và V cùng nhau bàn bạc thống nhất đi trộm xe mô tô bán lấy tiền chia nhau tiêu xài và chuẩn bị công, phương tiện, V có nhiệm vụ điều khiển xe mô tô chở L và L1 đến khu vực đã thống nhất để tìm tài sản trộm cắp và làm nhiệm vụ cảnh giới; còn L và L1 có nhiệm vụ đi tìm tài sản và trực tiếp trộm cắp.

Khoảng 23 giờ ngày 16-11-2017, L điều khiển xe mô tô Wave, biển số 70B1- 440.97 đến nhà của V thuộc ấp Thạnh Đ, xã Thạnh T, thành phố Tây N, tỉnh Tây Ninh, sau đó V điều khiển xe mô tô biển số 60Z1-6728 của mình chở L1 và L đến địa bàn xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh Tây Ninh để cho L và L1 xuống xe, đi bộ tìm tài sản để trộm cắp, còn V Làm nhiệm vụ cảnh giới. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 17-11- 2017 L và L1 đi đến cửa chữ L của nhà anh Nguyễn Văn S thuộc ấp Tân T, xã Tân H, L dùng dao lam rạch tấm nhựa cửa chữ L và cùng L1 đi vào trong nhà thì phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen – bạc, biển số 70K1-399.86 khóa cổ nên L đến phòng ngủ tìm được chìa khóa xe đưa cho L1 mở ổ khóa và cùng nhau đẩy ra đường, L điện thoại cho V biết đã trộm được xe mô tô chạy về nhà của V. Khi điều khiển xe vừa trộm được về tới nhà của V, L1 và L tháo bỏ biển số xe 70K1-399.86 và gắn vào biển số 60C1-556.82, trên đường về nhà L đem biển số xe 70K1-399.86 némxuống cầu kênh K21 thuộc ấp Tân P, xã Tân B, thành phố Tây N. Sau đó L1 điều khiển xe mô tô trộm cắp đem cất giấu tại một vườn mãng cầu thuộc địa bàn xã Tân H, huyện Tân C, đến khoảng 16 giờ cùng ngày, V điều khiển xe mô tô, biển số 60Z1- 6728, L1 điều khiển xe mô tô trộm cắp được đến quán cà phê Song T thuộc địa bàn khu phố 1, phường 1, thành phố Tây N, tỉnh Tây Ninh để bán cho người tên T (không rõ nhân thân, địa chỉ) thì bị Công an huyện Tân C phối hợp cùng Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Tây Ninh phát hiện bắt giữ cùng tang vật.

Ngoài vụ trộm cắp tài sản trên L, L1 và V còn khai trước đó đã cùng nhau thực hiện 03 vụ trộm cắp xe mô tô như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 21 giờ ngày 23-10-2017, V điều khiển xe mô tô Wave, biển số 70B1-440.97 của L chở L1 và L, khi đi L đem theo 01 cây kiềm cán bọc nhựa màu đỏ đi đến nhà của chị Đinh Thị Thu H, sinh năm 1975, ngụ tại ấp Phước L 1, xã Suối Đ, Huyện Dương Minh C, tỉnh Tây Ninh, V ở bên ngoài cảnh giới, L1 và L dùng cây kiềm cắt hàng rào kẽm lưới B40 đi vào nhà chị H trộm một xe mô tô, loại Wave RSX, màu đỏ - đen, biển số 70E1-306.22 đẩy về nhà V cất giấu. Sau đó V liên hệ với Nguyễn Hoàng O, sinh năm 1979, ngụ tại ấp Thạnh Đ, xã Thạnh T, thành phố Tây N, tỉnh Tây Ninh, nhờ O tìm người để V bán xe, khoảng 04 ngày sau O dẫn người tên T (không rõ nhân thân, địa chỉ) đến nhà V mua chiếc xe trên với số tiền 3.000.000 đồng, V chia cho L1 1.000.000 đồng, L 300.000 đồng.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 20 giờ ngày 24-10-2017, V điều khiển xe mô tô Wave, biển số 70B1-440.97 của L chở L1 và L đến địa bàn xã Tân H, huyện Tân C rồi cất giấu xe mô tô, cùng nhau đi bộ để tìm tài sản để trộm cắp. Khi đến khu vực ấp Tân T B, xã Tân H thấy nhà anh Nguyễn Duy T, sinh năm 1974 có một xe mô tô Dream, biển số 70F1-203.70 dựng bên hông nhà không có người trông coi, nên V đứng ngoài cảnh giới, L và L1 đến nơi để xe, L1 dùng tay rút dây công tắc điện, L đẩy xe ra đường giao cho V chạy về nhà cất giấu, sau đó tìm người bán xe nhưng không có người mua nên L1, L và V sử dụng xe trên làm phương tiện đi trộm cắp tài sản.

Vụ thứ ba: Vào khoảng 23 giờ ngày 28-10-2017, V sử dụng xe mô tô Dream, biển số 70F1-203.70 trộm cắp được chở L1 đi tìm tài sản để trộm cắp. Khi điều khiển xe đến nhà máy xay đá Núi P, thuộc ấp Thạnh Đ, xã Thạnh T, thành phố Tây N, tỉnh Tây Ninh, V dừng xe lại đứng ngoài cảnh giới, còn L1 đi vào phòng trực bảo vệ phát hiện có một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 70H1-018.78 có sẵn chìa khóa của ông Đặng Văn C, sinh năm 1964, ngụ tại ấp Tân L, xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh Tây Ninh là bảo vệ nhà máy đang nằm ngủ, nên L1 đi đến trộm cắp đẩy xe ra đường chạy về nhà V cất giấu. Khoảng 09 giờ ngày 29-10-2017, L1 điều khiển xe trộm cắp được chở V đến khu vực cầu kênh K21, thuộc ấp Tân P, xã Tân B, thành phố Tây N, tỉnh Tây Ninh bán cho người tên T (không rõ nhân thân, địa chỉ) được số tiền 3.500.000 đồng, V chia cho L1 1.750.000 đồng, số tiền còn lại V cất giữ. Đối với chiếc xe mô tô Dream, biển số 70F1-203.70 trộm cắp của anh Nguyễn Duy T, V nói xe của mình và nhờ Huỳnh Thị Ú, sinh năm 1973, ngụ tại ấp Phước Đ A, xã Phước Đ, huyện Gò D, tỉnh Tây Ninh bán giùm, nên Ú đem đi bán được số tiền 1.200.000 đồng đưa cho V, V chia cho L 300.000 đồng, số tiền còn lại V tiêu xài hết.

Vật chứng vụ án thu giữ gồm:

Thu giữ của Nguyễn Tuấn V 01 xe mô tô Wave do Trung Quốc sản xuất, biển số 60Z1-6728, số máy: 1P53FMH10271948, số khung: MG110*Y1103847*; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 2700, màu đen, số imel: 359344030267651, đã qua sử dụng.

Thu giữ của Nguyễn Văn L1 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha, màu xanh, gắn biển số 60C1-556.82, số máy: HC12E-7372665, số khung: RLHHC1251FY372563 (xe trộm của anh S); 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1200, màu xám, số imel: 353522026361762, đã qua sử dụng; tiền Việt Nam 1.000.000 đồng.

Thu giữ của Nguyễn Văn L 01 xe mô tô Wave do Trung Quốc sản xuất, biển số 70B1-440.97, số máy: RPTDS152FMH00185933, số khung: RPHWCHSXM6H 185933; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 70B1-440.97 do Ngô Văn E đứng tên; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A5, màu xanh, số imel: 357766074812210, đã qua sử dụng.

Thu giữ 01 xe mô tô hiệu Dream, màu nâu, gắn biển số 53V4-9754, số máy: LC150FMG-01674627 đã qua sử dụng (xe trộm của anh T), do ông Trần Văn H, sinh năm 1952, ngụ ấp Mũi Côn T, xã Phước H, huyện Củ C, Thành phố Hồ Chí Minh giao nộp cho Công an xã Phước H, huyện Củ C, TP Hồ Chí Minh, ngày 18-11-2017.

Thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đỏ - đen, không có biển số, số máy: JA31E0381231, số khung: 3107EY10486, đã qua sử dụng (xe trộm của chị H), do anh Trần Thanh L3, sinh năm 1987, ngụ ấp Ninh H, xã Bàu N, Huyện Dương Minh C giao nộp cho Công an xã Bàu N, Huyện Dương Minh C, ngày 12-12-2017; 01 ốp trung tâm phải bị vỡ mất một phần của xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đỏ - đen, chiều dài 56cm, rộng 17cm; thu giữ tại hiện trường vụ trộm 01 đoạn kim loại (kẽm lưới B40), dài 13,1cm, đường kính 0,1cm; 01 đoạn kim loại (kẽm lưới B40), dài 13,5cm, đường kính 0,1cm; 01 đôi dép nhựa màu xanh.

Tại kết luận định giá số 98/KL-HĐDG, ngày 22-11-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Châu kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 70K1- 399.86, số máy: HC12E-7372665, số khung: RLHHC1251FY372563 (của anh S), trị giá 16.000.000 đồng;

Tại Kết luận định giá số 02/KL-HĐDG, ngày 07-12-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Châu kết luận: 01 xe mô xe mô tô Dream, biển số 70F1-203.70, số máy: LC150FMG-01674627, số khung: LWGXCHL00002049 (của anh T), trị giá 2.400.000 đồng.

Tại Kết luận định giá số 35/KLĐG-HĐĐG, ngày 31-10-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 70E1- 306.22, số máy: JA31E0381231, số khung: 3107EY10486 (của chị H), trị giá 18.000.000 đồng;

Tại Kết luận định giá số 80/KLĐG-TTHS, ngày 08-11-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 70H1- 018.78 (của ông C), trị giá 10.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện, vật chứng bị thu giữ như bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu.

Cáo trạng số 19/QĐ/KSĐT, ngày 12-02-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh L và Nguyễn Văn L1 về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm a, c khoản 2, Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999; bị cáo Nguyễn Tuấn V về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm a khoản 2, Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu vẫn giữ nguyên truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo: Nguyễn

Thanh L từ 03 đến 04 năm tù; bị cáo Nguyễn Văn L1 từ 03 đến 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48  Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn V từ 03 đến 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về biện pháp tư pháp, ghi nhận bị hại chị H, anh S, anh T không yêu cầu các bị cáo bồi thường về thiệt hại; buộc bị cáo L1, V bồi thường thiệt hại cho ông Đặng Văn C tài sản bị trộm cắp theo quy định của pháp luật và xử lý vật chứng, tài sản bị tạm giữ theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo L, L1, V không tranh luận.

Tại phiên tòa hôm nay, tất cả bị hại đều có đơn xin xét xử vắng mặt.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm về với gia đình

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Châu, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo thể hiện: Khoảng 23 giờ ngày 16-11-2017, Nguyễn Tuấn V điều khiển xe mô tô biển số 60Z1-6728 của mình chở Nguyễn Văn L1 và Nguyễn Thanh L đến khu vực ấp Tân T, xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh Tây Ninh, các bị cáo lén lút trộm của anh Nguyễn Văn S 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển số 70K1-399.86 đem cất giấu tại vườn mãng cầu, đến khoảng 16 giờ cùng ngày, V điều khiển xe mô tô, biển số 60Z1-6728, L1 điều khiển xe mô tô trộm cắp được đến quan cà phê Song T thuộc khu phố 1, phường 1, thành phố Tây N, tỉnh Tây Ninh để bán cho người tên T (không rõ nhân thân, địa chỉ) thì bị Công an huyện Tân Châu phối hợp cùng Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Tây Ninh phát hiện bắt giữ cùng tang vật.

Trong quá trình điều tra, các bị cáo khai trước đó ngày 23-10-2017, trộm của chị Đinh Thị Thu H ngụ tại ấp Phước L 1, xã Suối Đ, Huyện Dương Minh C một xe mô tô, loại Wave RSX, màu đỏ - đen, biển số 70E1-306.22; ngày 24-10-2017, trộm của anh Nguyễn Duy T, ngụ tại ấp Tân T B, xã Tân H, huyện Tân C một xe mô tô Dream, biển số 70F1-203.70; ngày 28-10-2017, trộm của ông Đặng Văn C, ngụ tại ấp Tân L, xã Tân H, huyện Tân C một xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 70H1-018.78. Tổng giá trị tài sản các bị cáo trộm cắp là 46.400.000 đồng, nên hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[3] Vụ án có tinh chất nghiêm trong, hành vi của các bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương. Trước khi phạm tội, các bị cáo bàn bạc, phân công vai trò trách nhiệm, chuẩn bị công cụ, phương tiện tổ chức đi trộm cắp tài sản của người khác; các bị cáo hoạt động trên một địa bàn rộng lớn, từ huyện Tân Cđến thành phố Tây N và Huyện Dương Minh C, tỉnh Tây Ninh, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong nhân dân, làm mất an ninh tại địa phương. Bị cáo Nguyễn Thanh L cùng với bị cáo Nguyễn Văn L1 và Nguyễn Tuấn V thực hiện 03 lần trộm cắp tài sản trên địa bàn xã Tân H, huyện Tân C và xã Suối Đ, Huyện Dương Minh C, tỉnh Tây Ninh, trị giá tài sản trộm cắp 36.400.000 đồng; riêng 02 bị cáo Nguyễn Văn L1 và Nguyễn Tuấn V còn thực hiện thêm 01 vụ trộm cắp tài sản tại xã Thạnh T, thành phố Tây N, tỉnh Tây Ninh, trị giá tài sản trộm cắp 10.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt 46.400.000 đồng. Do đó, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để có điều kiện cải tạo, giáo dục và răn đe, phòng ngừa chung.

Xét trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Thanh L là người khởi xướng, chủ mưu, chuẩn bị công cụ, phương tiện, phân công trách nhiệm cho các bị cáo khác khi đi trộm cắp tài sản của người khác, trong đó bị cáo cùng với bị cáo Nguyễn Văn L1 là những người trực tiếp thực hiện trộm cắp, bị cáo Nguyễn Tuấn V là người có nhiệm vụ cảnh giới, khi trộm cắp được tài sản thì mang đi tiêu thụ và chia tiền cho bị cáo L và L1. Bị cáo L và L1 đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội, do đó hành vi của các bị cáo là tái phạm nguy hiểm, được quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Đối với bị cáo Nguyễn Tuấn V là người có nhiệm vụ chở bị cáo L và L1 đến khu vực trộm cắp tài sản; làm nhiệm vụ cảnh giới và đem tài sản trộm cắp được đi tiêu thụ, do đó hành vi của bị cáo phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Khi quyết định hình phạt có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo: Các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999.

Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Nguyễn Thanh L, Nguyễn Văn L và Nguyễn Tuấn V phạm tội nhiều lần, nên áp dụng điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự1999 khi quyết định hình phạt.

Đối với người tên T chưa xác định được về nhân thân và địa chỉ, nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Châu chưa làm việc được, khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với Huỳnh Thị Ú và Nguyễn Hoàng O có hành vi tiêu thụ tài sản, nhưng trong quá trình điều tra Ú và O không có mặt tại địa phương, nên chưa làm việc được, khi nào làm việc được có biện pháp xử lý sau.

[4] Về xử lý vật chứng:

Ghi nhận ngày 22-01-2018, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Châu trả lại cho anh Nguyễn Văn S 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, số máy: HC12E-7372665, số khung: RLHHC1251FY372563; ngày 26-01-2018 trả lại cho anh Nguyễn Duy T 01 xe mô tô Dream, màu nâu, số máy: LC150FMG-01674627, số khung: LWGXCHL00002049.

Ghi nhận ngày 16-12-2017 và ngày 06-01-2018, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Dương Minh Châu trả lại cho chị Đinh Thị Thu H 01 xe mô tô nhãn hiệu  Honda  Wave  RSX, màu  đỏ-đen,  số  máy:  JA31E0381231,  số  khung: 3107EY10486 và  01 ốp trung tâm phải bị vỡ mất một phần của xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đỏ - đen, chiều dài 56cm, rộng 17cm. Anh S, anh T, chị H không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn L1 và bị cáo Nguyễn Tuấn V có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho ông Đặng Văn C số tiền 10.000.000 đồng, trong đó bị cáo L1 bồi thường 5.000.000 đồng, bị cáo V bồi thường 5.000.000 đồng.

Đối với xe mô tô Wave do Trung Quốc sản xuất, biển số 60Z1-6728, số máy: 1P53FMH10271948, số  khung:  MG110*Y1103847*; 01 điện thoại di  động hiệu Nokia 2700, màu đen, số imel: 359344030267651, của bị cáo Nguyễn Tuấn V. Một (01) điện thoại di động hiệu Nokia 1200, màu xám, số imel: 353522026361762, của bị cáo Nguyễn Văn L1. Một (01) xe mô tô Wave do Trung Quốc sản xuất, biển số 70B1-440.97, số máy: RPTDS152FMH00185933,  số  khung:  RPHWCHSXM6H 185933 (kèm 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 70B1-440.97); 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A5, màu xanh, số imel: 357766074812210, của của bị Nguyễn Thanh L. Đây là những công cụ, phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước; Số tiền 1.000.000 đồng của bị cáo L1 do thu lợi bất chính mà có nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với vật chứng gồm: Một (01) đoạn kim loại (kẽm lưới B40), dài 13,1cm, đường kính 0,1cm; 01 đoạn kim loại (kẽm lưới B40), dài 13,5cm, đường kính 0,1cm;

01 đôi dép nhựa màu xanh; 01 biển số xe 60C1-566.82 và biển số 53V4-9754 không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ các điểm a, c khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17-11-2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L1 (tên gọi khác là Trận) 05 (năm) năm tù về tội“Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17-11-2017.

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn V (tên gọi khác làMỹ) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17-11-2017.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41, 42 Bộ luật Hình sự năm 1999; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Ghi nhận ngày 22-01-2018, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh trả lại cho anh Nguyễn Văn S 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, số máy: HC12E-7372665, số khung: RLHHC1251FY372563; ngày 26-01-2018 trả lại cho anh Nguyễn Duy T 01 xe mô tô Dream, màu nâu, số máy: LC150FMG-01674627, số khung: LWGXCHL00002049.

Ghi nhận ngày 16-12-2017 và ngày 06-01-2018, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh trả lại cho chị Đinh Thị Thu H 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đỏ - đen, số máy: JA31E0381231, số khung: 3107EY10486 và   01 ốp trung tâm phải bị vỡ mất một phần của xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đỏ - đen, chiều dài 56cm, rộng 17cm.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn L1 và bị cáo Nguyễn Tuấn V có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Đặng Văn C số tiền 10.000.000 đồng, trong đó bị cáo L1 bồi thường 5.000.000 đồng (năm triệu), bị cáo V bồi thường 5.000.000 đồng (năm triệu).

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô Wave do Trung Quốc sản xuất, biển số 60Z1-6728, số máy: 1P53FMH10271948, số khung: MG110*Y1103847*; 01 xe mô tô Wave do Trung Quốc sản xuất, biển số 70B1-440.97, số máy: RPTDS152FMH00185933, số khung: RPHWCHSXM6H 185933 (kèm 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 70B1-440.97); 01 điện thoại di động hiệu Nokia 2700, màu đen, số imel: 359344030267651; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1200, màu xám, số imel: 353522026361762; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A5, màu xanh, số imel: 357766074812210 và số tiền 1.000.000 (một triệu) đồng.

Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn kim loại (kẽm lưới B40), dài 13,1cm, đường kính 0,1cm; 01 đoạn kim loại (kẽm lưới B40), dài 13,5cm, đường kính 0,1cm; 01 đôi dép nhựa màu xanh; 01 biển số xe 60C1-566.82 và biển số 53V4-9754.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và ông Đặng Văn C có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo L1, V chưa thi hành xong số tiền trên thì các bị cáo còn phải chịu tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Các bị cáo Nguyễn Thanh L, Nguyễn Văn L1 và Nguyễn Tuấn V, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo Nguyễn Văn L1 và Nguyễn Tuấn V, mỗi bị cáo phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo; bị hại biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

553
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2018/HS-ST ngày 06/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:22/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;