Bản án 22/2017/HSST ngày 29/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 22/2017/HSST NGÀY 29/11/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 29 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, đã tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 09/2017/TLST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2017. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2017/HSST-QĐ ngày 0/11/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Tuấn Th, sinh năm 1986.

HKTT: Thôn LT, xã ĐX, huyện QV, tỉnh Bắc Ninh. Quốc tịch; Việt Nam. Dân tộc; Kinh; Tôn giáo; Không. Trình độ văn hóa: 12/12 Nghề nghiệp; Cán bộ, Đảng viên đảng cộng sản Việt Nam bị đình chỉ sinh hoạt đảng từ ngày 17/5/2017. Bố đẻ; Phạm Văn C, sinh năm 1967. Mẹ đẻ; Nguyễn Thị V, sinh năm 1960. Gia đình có 01 con, bị cáo không có anh em ruột. Vợ; Lê Thị D, sinh năm 1987, con có 02 con.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân; Không.

Tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/5/2017 đến ngày 24/7/2017 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại:

1. Cháu Phạm Văn H (Phạm Mạnh H), sinh năm 2001 (đã chết).

Quê quán: Thôn VV, xã VT, huyện QV, tỉnh Bắc Ninh.

Người đại diện theo pháp luật: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1973 (bố đẻ cháu H, có mặt).

Quê quán: Thôn VV, xã VT, huyện QV, tỉnh Bắc Ninh.

2. Cháu Nguyễn Văn Đ, sinh năm 2002 (đã chết).

Quê quán: Thôn VV, xã VT, huyện QV, tỉnh Bắc Ninh.

Người đại diện theo pháp luật: Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1977 (bố đẻ cháu Đông, có mặt).

Quê quán: Thôn VV, xã VT, huyện QV, tỉnh Bắc Ninh.

3. Cháu Nguyễn Văn H, sinh năm 1999 (đã chết).

Quê quán: Thôn VV, xã VT, huyện QV, tỉnh Bắc Ninh.

Người đại diện theo pháp luật: Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1975 (bố đẻ cháu Hào, có mặt).

Quê quán: Thôn VV, xã VT, huyện QV, tỉnh Bắc Ninh.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Phạm Văn C, sinh năm 1967 (bố đẻ bị cáo Th, có mặt).

Cư trú: Thôn LT, xã ĐX, huyện QV, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Tuấn Th, sinh năm 1986 ở thôn LT, xã ĐX, huyện QV, tỉnh Bắc Ninh có giấy phép ô tô hạng B2 số 2701155690793 do Sở Giao thông Vận tải tỉnh Bắc Ninh cấp ngày 18/11/2015. Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 14/5/2017, Th điều khiển xe ô tô Camry BKS 99A-148.77 đi từ thôn HL, xã PL, huyện Quế Võ theo đường tỉnh lộ 279 để về nhà Th ở thôn LT, xã ĐX. Khi đi đến khu vực gần Ủy ban nhân dân xã NH, huyện Quế Võ Thành điều khiển xe với tốc độ khoảng 70km/h. Khi đó Th phát hiện phía trước có 03 phương tiện giao thông đi cùng chiều và ở bên phải đường với xe của Th gồm có; Cháu Nguyễn Anh Đ (Nguyễn Văn Đ), sinh năm 1998 điều khiển xe mô tô chở cháu Nguyễn Văn M, sinh năm 2000, cháu Đ và M đều ở thôn ĐC, xã NH; Cháu Nguyễn Văn Tr, sinh năm 2002 điều khiển xe đạp điện chở cháu Nguyễn Thanh Tr, sinh năm 2002, cháu Tr và Tr cũng ở thôn ĐC, xã NH; Cháu Nguyễn Văn H, sinh năm 1999 điều khiển xe đạp điện chở cháu Nguyễn Văn Đ, sinh năm 2002 và cháu Phạm Mạnh H (Phạm Văn H), sinh năm 2001, các cháu H, Đông và H đều ở thôn VV, xã VT, huyện QV, các phương tiện đều đang rẽ phải vào đường đi về thôn ĐC, xã NH. Do Th thiếu quan sát nên khi phát hiện các phương tiện giao thông trên thì khoảng cách với xe ô tô của Th đã rất gần, Th không làm chủ được tốc độ nên đã cho xe của mình đi sang bên phải xe đạp điện do cháu Tr điều khiển dẫn đến sườn bên trái xe của Th va chạm với xe cháu Tr, hậu quả làm cho cháu T và cháu Tr ngã xuống bên trái đường. Tiếp đó xe ô tô tiếp tục đâm thẳng vào xe đạp điện do cháu H điều khiển và đâm tiếp vào xe mô tô do cháu Đ điều khiển làm cả xe ô tô của Th và xe mô tô của cháu Đ lao xống ruộng lúa phía trước. Hậu quả của va chạm đã làm cháu Đ, cháu H và cháu H bị chết trên đường đi cấp cứu, cháu Tr và cháu Tr bị thương nhẹ, cháu Đ cháu M bị thương nặng.

Sau khi tai nạn xảy ra, trong đêm ngày 15/5/2017 Th đã đến Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Võ đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và các phương tiện trong vụ án cho thấy:

Khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường vụ tai nạn giao thông xảy ra tại đường tỉnh lộ 279 thuộc địa phận thôn BP, xã NH, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Đường đang trong giai đoạn thi công, mặt đường đất đá răm tương đối bằng phẳng rộng 16m. Trên mặt đường tỉnh lộ 279 phát hiện 01 xe đạp điện số khung 083421507005786 ở tình trạng nằm đổ nghiêng bên phải, đầu xe hướng Đại Xuân, đuôi xe hướng thị trấn Phố Mới, trục giữa bánh trước cách mép đường 3m, trục giữa bánh sau cách mép đường 2,5m. Phía lề đường bên phải đường tỉnh lộ 279 phát hiện 01 xe đạp điện số khung RPETCB9BEDA 020887 ở tình trạng nằm đổ nghiêng bên phải, đầu xe hướng thị trấn Phố Mới, đuôi xe hướng Đại Xuân, trục giữa bánh trước cách mép đường 2,7m, trục giữa bánh sau cách mép đường 2,1m.

Tại ruộng lúa phát hiện 01 xe ô tô BKS 99A-14877 ở tình trạng đỗ trên mặt đất ruộng lúa, đầu xe hướng Đại Xuân, đuôi xe hướng thị trấn Phố Mới, trục giữa bánh trước bên trái cách mép đường tỉnh lộ 279 là 10,8m, cách mép đường gần nhất vào thôn Đồng Chuế là 10,2m, cách trục giữa bánh sau xe đạp điện (số khung RPETCB9BEDA 020887) là 18,2m. Trên mặt ruộng lúa phát hiện 01 xe mô tô BKS 99E1-329.39 ở tình trạng nằm đổ nghiêng bên trái, đầu xe hướng thôn Đồng Chuế, đuôi xe hướng đường tỉnh lộ 279, trục giữa bánh trước xe cách mép đường tỉnh lộ 279 là 13,3m, cách trục giữa bánh trước bên trái xe ô tô là 2,9m, trục giữa xe cách mép đường 12,7m, trục giữa bánh sau xe cách mép đường là 12,2m.

Khám nghiệm các phương tiện giao thông: Khám nghiệm xe ô tô BKS 99A-148.77 xác định; Toàn bộ phần đầu xe bị giập vỡ, bung rời, biến dạng phức tạp, có dấu vết dồn ép từ phía trước về phía sau, biển kiểm soát đặt đầu xe bị vỡ mặt nhựa bọc phía trước, dấu vết vỡ nặng nhất tại vị trí tương ứng với chữ 99A của BKS, bề mặt BKS tương ứng với vết vỡ trên có dấu vết bẹp, lõm biến dạng. Phần bề mặt vỏ thân xe bên trái: Tại vị trí giữa bánh lái và cửa bên người lái có vết chầy xước bám chất màu nâu vàng, chiều hướng từ trước về sau, điểm thấp nhất vết xước cách mặt đất 15cm. Kiểm tra trong xe: Túi khí phía trước người lái và bên ghế phụ bung hoàn toàn. Kiểm tra kỹ thuật an toàn xe: Hệ thống phanh và hệ thống lái của xe hoạt động bình thường. Quá trình khám nghiệm thu giữ Camera của xe để kiểm tra, kết quả kiểm tra Camera hành trình của xe ô tô ngày 14 tháng 05 năm 2017 như sau: Thời điểm 21 giờ 37 phút 06 giây, tốc độ xe là 70km/giờ, thời điểm xảy ra tai nạn giao thông là 21 giờ 37 phút 10 giây. Kết quả làm việc với Sở giao thông vận tải Bắc Ninh xác định: Tốc độ tối đa của phương tiện tham gia giao thông trên đường tỉnh lộ 279 là 30km/giờ - 40km/giờ: Khám nghiệm phương tiện xe mô tô BKS: 99E1 - 329.39, xác định: Xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave an pha, màu sơn trắng, xe có bám nhiều chất bùn đất và lá lúa. Xem xét phía trước xe; Cánh yếm bên phải có vết nứt nhựa, kích thước (16 x 7) cm. Mặt trước mặt nạ có vết chầy xước nhựa, kích thước (5 x 3,5)cm. Chắn bùn bên phải có vết nứt nhựa kích thước (36 x 17)cm. Phần ốp nhựa phía sau cánh yếm bên trái bị bật một số lẫy. Ốp nhựa than xe bên trái bị nứt vỡ kích thước (10 x 1,5)cm. Xem xét phần đuôi xe: Toàn bộ nửa tay xách đuôi xe phía sau bị biến dạng, dồn ép từ sau ra trước, từ trên xuống dưới đến gần mặt yên xe. Biển số và cụm đèn phía sau bị rời ra ngoài, khu vực cụm đều bị vỡ mất mảnh có gắn nhiều bùn đất, lá lúa: Khám nghiệm xe đạp điện số khung RPETCB9PEDA020887, xác định: Xem xét phía trước xe; Tay lái khi xoay không còn tác dụng. cụm đèn xi nhan bên phải bị rời ra ngoài. Đèn chiếu sang phía trước bị gãy chất nhựa. Bánh trước hơi lệch sang trái. Vỡ mất mảnh toàn bộ mặt sàn để chân. Khuyết toàn bộ yên xe. Vỡ mất mảnh toàn bộ đèn hậu, đèn xi nhan phía sau bên phải và nhựa ốp xung quanh. Phần khung xe phía trên cụm đèn này có vết cong vênh từ sau ra trước, từ dưới lên trên. Giảm sóc phía sau bên phải bị cong nhẹ từ sau ra trước. Mặt trên chắn bùn phía sau có vết lõm kích thước (7,5 x 9)cm. Trên bề mặt dấu vết này có diện trầy xước, kích thước (7 x 4,5)cm. Vị trí vết lõm này cách mặt đất 34cm (Xe ở tình trạng lốp không còn căng hơi) (BL: 29): Khám nghiệm xe đạp điện số khung 083421507005786, xác định: Vỡ toàn bộ cốp để đồ phía trước đầu xe. Cổ phốt bị cong tại vị trí chạc ba từ sau ra trước, từ trái qua phải, có dấu vết mài trượt, kích thước (30x5)cm. Vỡ mất mảnh nửa sau chắn bùn phía trước, chắn bùn phía sau có dấu vết bị gẫy rời ra khỏi thanh nhựa gắn cố định với trục bánh (thanh nhựa bên trái).

Ngày 17/5/2017 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Ninh ra quyết định trưng cầu giám định cơ chế hình thành dấu vết. Tại kết luận giám định số 37/GĐDV - PC54 ngày 30/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Cơ chế hình thành dấu vết; Dấu vết tại phần đầu xe ô tô BKS 99A-148.77 được hình thành do va chạm với vật tày, chiều hướng từ trước về sau. Dấu vết phần đuôi xe máy điện màu đen số khung RPETCB9BEDA 020887 được hình thành do va chạm với vật tày, chiều hướng từ sau ra trước, từ phải sang trái. Dấu vết lõm chắn bùn bánh sau hình thành do va chạm với vật tày, chiều hướng từ sau ra trước, từ phải sang trái. Dấu vết tại mặt sau bên phải giảm xóc bánh trước xe đạp điện màu trắng số khung 083421507005786 được hình thành do mài trượt với bề mặt vật tày, chiều hướng từ trước về sau, từ dưới lên trên: Điểm va chạm; Điểm va chạm đầu tiên giữa xe ô tô BKS 99A-148.77 với xe máy điện màu đen số khung RPETCB9BEDA 020887 là tại bề mặt BKS 99A-148.77 phía trước đầu xe, vị trí có chữ “A-” trên biển kiểm soát và tại mặt sau, phía trên bên phải chắn bùn bánh sau xe máy điện. Chiều hướng va chạm từ trước về sau xe ô tô; từ sau ra trước, từ phải sang trái xa máy điện.

Về khám nghiệm tử thi: Kết quả khám nghiệm tử thi cháu Phạm Văn H; Miệng có máu chảy ra, môi trên bầm tím trên diện (2,5 x 1)cm. Mẻ răng số 2 hàm trên bên phải. Gãy xương gò má khung tiếp bên trái. Chân và tay có nhiều vết sước da. Giải phẫu tử thi xác định; Vỡ xương hộp sọ phức tạp, diện (4 x 32)cm, qua vết vỡ thấy thoát máu: Kết quả khám nghiệm tử thi cháu Nguyễn Văn Đ; Hai lỗ tai, lỗ mũi có máu chảy ra, môi dưới bầm tím trên diện (4 x 1,5)cm. Miệng có ít dịch mầu nâu chảy ra. Vùng trán, vùng má có vết xây xát da, vùng nhân trung có diện bầm dập. Chân và tay có nhiều vết sước da. Giải phẫu tử thi xác định; Da cơ vùng trán bầm dập, vỡ lún xương hộp sọ vùng trán phức tạp, diện (3,5 x 2)cm: Kết quả khám nghiệm tử thi cháu Nguyễn Văn H; Vùng ngực rải rác có vết xây xát da không liên tục, diện (14 x 11)cm. Vùng bẹn bên phải có diện bầm tím, kích thước (17 x 9)cm. Tay phải, tay trái rải rác có nhiều vết xây xát da. Giải phẫu tử thi xác định; Dập vỡ mặt dưới thùy gan trái, KT(3 x 1)cm. Vỡ thận 2 bên, KT (1 x 1)cm. Ngày 15/5/2017 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Ninh trưng cầu giám định nguyên nhân chết của các nạn nhân Phạm Mạnh H ( Phạm Văn H), Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn H. Tại bản kết luận giám định pháp y tử thi số 192A, 192B, 192C/CĐ- PC 54 ngày 20/5/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Nguyên nhân chết của Phạm Mạnh H (Phạm Văn H), sinh năm 2001 ở VT, QV, Bắc Ninh là do chấn thương sọ não nặng dẫn đến suy hô hấp, suy tuần hoàn. Nguyên nhân chết của Nguyễn Văn Đ, sinh năm 2002 ở VT, QV, Bắc Ninh là do chấn thương sọ não dẫn đến suy hô hấp, suy tuần hoàn. Nguyễn nhân chết của Nguyễn Văn H, sinh năm 1999 ở VT, QV, Bắc Ninh là do chấn thương bụng kín làm mất máu cấp dẫn đến suy hô hấp, suy tuần hoàn. Ngày 16/5/2017 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Ninh ra quyết định trưng cầu giám định số 125 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh giám định dấu vết máu. Tại kết luận giám định số 24/KLGĐ-PC54 ngày 17/5/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Ninh kết luận; Máu của 03 nạn nhân Nguyễn Văn Đ, Phạm Mạnh H (Phạm Văn H) và Nguyễn Văn H (ký hiệu M3, M4, M5) đều là nhóm máu 0. Dấu vết màu nâu ghi thu tại vị trí số 7, số 8 tại hiện trường (ký hiệu M1, M2) là máu người, đều là nhóm máu 0.

Ngày 17/5/2017 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Ninh ra quyết định trưng cầu giám định số 170, 171 trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Ninh giám định: Tỷ lệ phần trăm thương tật và cơ chế hình thành vết thương của cháu Nguyễn Văn M và cháu Nguyễn Anh Đ nhưng cháu M và cháu Đ từ chối không giám định nên không có kết quả giám định thương tật.

Về trách nhiệm dân sự: Đối với gia đình nạn nhân bị chết: Anh Nguyễn Th, là bố của cháu Nguyễn Văn Đ khai: Gia đình đã chi phí mai táng hết số tiền 32.500.000 đồng, gia đình bị cáo Th bồi thường được 167.000.000 đồng. Anh Phạm Văn H là bố của cháu Phạm Mạnh H (Phạm Văn H) khai: Gia đình đã chi phí mai táng hết 29.000.000 đồng (hai mươi chín triệu đồng), gia đình bị cáo Th bồi thường được 157.000.000 đồng. Anh Nguyễn Văn Th là bố của cháu Nguyễn Văn H khai: Gia đình đã chi phí mai táng hết số tiền là 36.000.000 đồng, gia đình bị cáo Th bồi thường được 157.000.000 đồng. Các gia đình bị hại không yêu cầu về bồi thường tiếp và có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho Th. Đối với các nạn nhân bị thương: Gia đình bị cáo Th đã khắc phục cho cháu Nguyễn Anh Đ số tiền là 70.000.000 đồng. Bồi thường cho cháu Nguyễn Văn M số tiền là 55.000.000 đồng. Bồi thường cho cháu Nguyễn Văn Tr số tiền là 10.000.000 đồng. Cháu Nguyễn Thanh Tr và gia đình không yêu cầu Th phải bồi thường.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra thu giữ các phương tiện giao thông gồm: xe ô tô BKS: 99A-148.77; xe đạp điện số khung 083421507005786; xe đạp điện số khung RPETCB9BEDA 020887; xe mô tô BKS: 99E1-329.39. Số tài sản này Cơ quan điều tra sau đó đã trả lại chủ sở hữu.

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số 98/CTr-VKS ngày 4/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Phạm Tuấn Th về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 3 Điều 202 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa trong phần tranh tụng, bị cáo Th thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo cũng tỏ ra vô cùng ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã đưa ra chứng cứ để buộc tội Phạm Tuấn Th phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” với hậu quả làm 03 người chết. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3, khoản 5 Điều 202; Điều 36; điểm b, điểm p, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 33 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt Phạm Tuấn Th từ 4 năm 6 tháng đến 5 năm tù nhưng được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam. Phạt bổ sung cấm hành nghề lái xe đối với bị cáo với thời hạn từ 1 đến 02 năm kể từ thời điểm bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Về phần trách nhiệm dân sự do các bên đã thỏa thuận bồi thường và không có yêu cầu tiếp nên không xem xét giải quyết. Về vật chứng của vụ án; Trả lại ông Phạm Văn C 01 camera hành trình của chiếc xe ô tô Camry BKS 99A-148.77. Hoàn trả bị cáo Th 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 số 2701155690793. Đối với chiếc USB lưu lại hành trình của xe ô tô Camry BKS 99A-148.77, đây là chứng cứ của vụ án nên cần lưu lại kèm theo hồ sơ vụ án.

Bị cáo Th nhận tội và không tham gia tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Về việc thực hiện trình tự tố tụng đối với vụ án: Quá trình thực hiện thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Quế Võ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2. Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo Th tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện giao thông. Căn cứ lời khai của bị cáo Thành, căn cứ biên bản khám nghiệm tử thi, kết luận của cơ quan giám định cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ để xác định: Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 14/5/2017, bị cáo Phạm Tuấn Th điều khiển ô tô Camry BKS 99A-148.77 lưu thông trên đường tỉnh lộ 279 đoạn qua địa phận thôn BP, xã NH, huyện Quế Võ đã cho xe chạy với tốc độ 70km/h vượt quá tốc độ quy định, không chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn với xe chạy liền trước nên đã gây tại nạn. Hậu quả làm cháu Nguyễn Văn Đ, cháu Phạm Mạnh H (tức Phạm Văn H) và cháu Nguyễn Văn H bị tử vong, cháu Nguyễn Văn M và cháu Nguyễn Anh Đ bị thương tích. Hành vi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ chạy vượt quá tốc độ cho phép, không chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn với xe chạy liền trước đã vi phạm vào khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ. Hậu quả của hành vi vi phạm luật giao thông đường bộ của bị cáo Th đã gây tại nạn giao thông làm chết 03 người. Theo Thông tư số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/8/2013 thì hành vi của bị cáo Th đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, tội phạm được quy định tại khoản 3 Điều 202 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ” theo khoản 3 Điều 202 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự giao thông đường bộ, xâm phạm đến trật tự công cộng, xâm phạm đến tính mạng của người tham gia giao thông đường bộ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã để lại hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, không những đã làm mất đi tính mạng của 03 người, để lại hậu quả vô cùng to lớn mà thân nhân của các nạn nhân phải gánh chịu. Hành vi phạm tội của bị cáo còn gây nên sự hoang mang, lo lắng cho người dân khi tham gia giao thông trên đường bộ, do vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc mới có tác dụng riêng và phòng ngừa chung.

Xem xét về các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo làm chết 03 người, đây là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên hậu quả này đã là tình tiết định khung hình phạt đối với bị cáo nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm k Điều 48 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào khác. Về tình tiết giảm nhẹ; Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi phạm tội bị cáo cũng đã tác động gia đình thăm hỏi gia đình nạn nhân, tích cực khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình đã gây ra. Bị cáo đã cùng với gia đình khắc phục, bồi thường thiệt hại để gia đình các nạn nhân khắc phục phần nào những hậu quả mà bị cáo đã gây ra. Bị cáo trước khi phạm tội công tác tại Bệnh viện Đa khoa huyện Quế Võ là một Đảng viên, cán bộ, một Bí thư chi đoàn năng nổ, có nhiều đóng góp vào hoạt động chung của Bệnh viện cũng như của Chi đoàn Bệnh viện. Bị cáo trong quá trình công tác cũng như trong sinh hoạt đoàn đã lập thành tích được Giám đốc Sở y tế Bắc Ninh tặng thưởng Giấy khen năm 2014; được ban chấp hành Huyện đoàn Quế Võ tặng Giấy khen năm 2017; Ban chấp hành Tỉnh đoàn Bắc Ninh tặng thưởng Bằng khen năm 2016; Bị cáo cũng tham gia tích cực và có nhiều cống hiến trong hoạt động hiến máu nhân đạo được Ban chỉ đạo vận động hiến máu tình nguyện tỉnh Bắc Ninh ghi nhận. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, do vậy Hội đồng xét xử xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, điểm p, điểm s khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra đại diện gia đình các nạn nhân đã có đơn, cũng như tại phiên tòa hôm nay có đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo sau khi sự việc xảy ra cũng đã đến cơ quan điều tra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo cũng có người thân thích trong gia đình là mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị V có thành tích trong công tác đã được Bộ trưởng Bộ quốc phòng tặng Bằng khen; Bị cáo có bố vợ là ông Lê Văn H là bệnh binh, có ông nội là Phạm Đình T, bà ngoại là Nguyễn Thị Y và bác ruột Phạm Đình H đều là những người có thành tích trong chiến đấu, công tác và đã được Nhà nước ghi nhận, tặng thưởng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự để Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo.

Xem xét, cân nhắc toàn bộ những tình tiết của vụ án thì thấy: Bị cáo phạm tội lần đầu, phạm tội nhưng không có lỗi cố ý đối với hậu quả của hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Bị cáo vì một chút lơ là khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông đã gây tai nạn, gây lên hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi phạm tội cũng đã rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân rất tốt. Do vậy Hội đồng xét xử thấy rằng chỉ cần có mức hình phạt đủ để răn đe đối với bị cáo, cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp dưới khung hình phạt quy định để bị cáo có cơ hội cải tạo, nhanh chóng hòa nhập xã hội, hòa nhập cộng đồng, tiếp tục trở thành người công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên do bị cáo phạm tội với hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nên cần áp dụng hình phạt bổ sung, cấm bị cáo lái xe ô tô một thời gian sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

Về phần trách nhiệm bồi thường dân sự: Sau khi xảy ra sự việc phía gia đình bị cáo và bị cáo cũng đã tích cực bồi thường cho gia đình các cháu bị nạn để khắc phục một phần hậu quả xảy ra. Đại diện các gia đình cũng đã thống nhất việc bồi thường và không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự thỏa thuận này và không xem xét giải quyết trong vụ án này. Đối với các cháu Nguyễn Anh Đ (Nguyễn Văn Đ), cháu Nguyễn Văn M, cháu Nguyễn Văn Tr và cháu Nguyễn Thanh Tr cũng từ chối giám định thương tích, không yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử cũng không xem xét giải quyết là có căn cứ.

Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ các phương tiện giao thông gồm: Xe ô tô BKS 99A-148.77; xe đạp điện số khung 083421507005786; Xe đạp điện số khung RPETCB9BEDA 020887; Xe mô tô BKS: 99E1-329.39. Số vật chứng này, Cơ quan điều tra đã trả lại chủ sở hữu và các chủ sở hữu cũng không có yêu cầu gì nên cũng không xem xét giải quyết. Đối với chiếc Camera hành trình của xe ô tô đang tạm giữ trả lại cho ông C là chủ sở hữu. Hoàn trả bị cáo Th 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 số 2701155690793 mang tên Phạm Tuấn Th nhưng tiếp tục tạm giữ lưu hồ sơ vụ án đến khi bị cáo chấp hành xong hình phạt bổ sung cấm lái xe. Lưu hồ sơ chiếc USB lưu lại hành trình của xe ô tô Camry BKS 99A-148.77.

Về án phí: Bị cáo Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Tuấn Th phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Áp dụng khoản 3, khoản 5 Điều 202; Điều 36; điểm b điểm p điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 33 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Phạm Tuấn Th 4 năm 6 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam bị cáo từ ngày 15/5/2017 đến ngày 24/7/2017. Phạt bổ sung; Cấm bị cáo Th hành nghề lái xe ô tô trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết do bị cáo và người bị hại đã thỏa thuận xong và không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự; Hoàn trả ông Phạm Văn C 01 chiếc Camera hành trình của xe ô tô (theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 6/10/2017 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Ninh và Chi cục Thi hành án huyện Quế Võ); Hoàn trả bị cáo 01 bằng lái xe hạng B2 số 2701155690793 do Sở Giao thông Vận tải tỉnh Bắc Ninh cấp ngày 18/11/2015 mang tên Phạm Tuấn Th nhưng tiếp tục tạm giữ lưu hồ sơ đến khi bị cáo chấp hành xong hình phạt bổ sung cấm lái xe. Lưu hồ sơ chiếc USB lưu lại hành trình của xe ô tô Camry BKS 99A-148.77.

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Th phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, đại diện của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

343
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2017/HSST ngày 29/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:22/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;