Bản án 22/2017/HSST ngày 18/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 22/2017/HSST NGÀY 18/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 18/2017/HSST ngày 25 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Hoài T, sinh năm 1994 tại Hải Phòng; trú tại: Cụm 2, tổ dân phố L, thị trấn C, huyện C, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 05/12; con ông Nguyễn Văn T và bà Phạm Thị H; chưa có chồng, có 01 con; tiền sự: không; tiền án: không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Do nghiện ma túy nên khoảng 09 giờ 00 phút ngày 18 tháng 5 năm 2017, Nguyễn Thị Hoài T thuê anh Đoàn Thế A chở xe ôm từ nhà riêng tại cụm 2, tổ dân phố L, thị trấn C, huyện C, thành phố Hải Phòng sang khu vực nội thành Hải Phòng để mua ma túy; T nói với anh Thế A đi sang Hải Phòng có việc riêng. Khi đến khu vực đường tàu T thuộc quận L, thành phố Hải Phòng, T bảo anh Thế A ở ngoài đợi, còn T vào khu vực đường tàu, mua của một người phụ nữ không quen biết một gói ma túy kích thước khoảng 3x4cm với giá 1.200.000 đồng. Sau đó, T cất gói ma túy vào túi áo khoác bên phải phía trước và đi ra chỗ anh Thế A đang đợi để quay về C. Khi đến trạm soát vé bến phà Đ thuộc quận H, thành phố Hải Phòng, T bị các lực lượng chức năng kiểm tra, bắt giữ.

Tại Kết luận giám định số 710/PC54(MT) ngày 19 tháng 5 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Thị Hoài T gửi giám định có heroine, trọng lượng heroine có trong 3,724 gam chất bột là 2,391 gam.

Tại Bản cáo trạng số 20/CT-VKS ngày 23 tháng 8 năm 2017, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hoài T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Nguyễn Thị Hoài T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của Cáo trạng, khẳng định Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.

Trong lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị:

Về tội danh và điều luật áp dụng: Giữ nguyên như truy tố của bản Cáo trạng. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 194, các điểm p, l khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hoài T từ 24 đến 30 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy vật chứng là số ma túy còn lại sau giám định.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đ   được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

XÉT THẤY

Lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra và tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 18 tháng 5 năm 2017, Nguyễn Thị Hoài T bị bắt quả tang đang cất giữ, cất giấu bất hợp pháp trong túi áo khoác bên phải phía trước một gói nilon màu trắng, kích thước khoảng 3x4cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng; theo kết luận giám định có 2,391 gam heroine. Heroine là chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội, nằm trong Danh mục I, STT 20 Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ. Việc cất giữ, cất giấu chất ma túy của bị cáo không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Vì vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Bị cáo không có tình tiết định khung tăng nặng. Do vậy, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Đánh giá về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần xét xử nghiêm nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo và hiện đang có thai. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm p, l khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Về hình phạt chính: Tuy bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 nhưng bản thân là đối tượng nghiện ma túy. Năm 2012, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trẻ em”. Đối với tiền án này, tuy đã  được xóa án tích nhưng thể hiện bị cáo là người không có ý thức sửa chữa sai lầm, coi thường pháp luật. Vì vậy, cần xử bị cáo trên mức khởi điểm của khung hình phạt, cách ly bị cáo ra khỏi x hội một thời gian mới đủ sức răn đe. Tuy nhiên, khi lượng hình, cũng cần căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015, áp dụng khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để quyết định mức hình phạt theo hướng có lợi cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Theo kết quả xác minh của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H, bị cáo hiện không có việc làm, đang nuôi con nhỏ và đang có thai. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Heroine là chất ma túy cấm lưu hành, vì vậy cần tịch thu, tiêu hủy bì thư sau giám định trong đựng tinh thể có chứa chất heroine.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đối với Đoàn Thế A, tài liệu điều tra không đủ căn cứ xử lý hình sự; đối với người bán ma túy cho bị cáo hiện chưa xác định được lai lịch địa chỉ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Hoài T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194, các điểm p, l khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hoài T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999, điểm a khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003: Tịch thu, tiêu hủy bì thư có dấu hiệu niêm phong số 710/PC54 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24 tháng 8 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận H, thành phố Hải Phòng).

Về án phí:

Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Thị Hoài T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2017/HSST ngày 18/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;