TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 22/2017/DS-ST NGÀY 06/11/2017 VỀ TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 49/2017/TLST-DS ngày 03 tháng 7 năm 2017 về tranh chấp kiện đòi tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2017/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Phạm Văn S; Địa chỉ: Tổ dân phố 4, thị trấn C, huyện C, tỉnh Gia Lai; Có mặt.
2. Bị đơn: Bà Vũ Thị Đ; Địa chỉ: 760 H, tổ dân phố 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Gia Lai; Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Xuân P; Địa chỉ: 760 H, tổ dân phố 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Gia Lai; Vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 17/5/2017 và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là ông Phạm Văn S trình bày như sau:
Ngày 25/12/2014, ông S có gửi 2.100kg cà phê nhân quy chuẩn tại Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) P của bà Vũ Thị Đ và ông Nguyễn Xuân P. Bà Đ, ông P hẹn khi nào ông S có nhu cầu bán thì bà Đ, ông P sẽ mua số cà phê trên theo giá thị trường tại thời điểm bán. Ngày 14/5/2015, ông S đã bán cho bà Đ, ông P 800kg cà phê nhân quy chuẩn và đã nhận đủ tiền. Hiện nay, ông P, bà Đ vẫn còn giữ của ông S 1.300kg cà phê nhân quy chuẩn. Ông S đã nhiều lần yêu cầu bà Đ, ông P trả lại số cà phê trên, nhưng cho đến nay bà Đ, ông P vẫn không trả.
Tại phiên tòa hôm nay, ông S yêu cầu bị đơn là bà Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông P có nghĩa vụ liên đới trả lại cho ông S số cà phê nhân quy chuẩn là 1.300kg, với giá là 40.000 đồng/kg, quy thành tiền là 52.000.000 đồng.
Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, bị đơn là bà Vũ Thị Đ không có yêu cầu phản tố và trình bày như sau:
Bà Đ đồng ý với nội dung khởi kiện của ông Phạm Văn S. Năm 2013 tôi và chồng là ông Nguyễn Xuân P cùng thành lập DNTN P, ngành nghề kinh doanh chính là mua bán hàng nông sản theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mã số 5900975015, đăng ký lần đầu ngày 16/12/2013 của Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Gia Lai, tôi là người đại diện đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, công việc làm ăn, mua bán hàng ngày do hai vợ chồng tôi cùng nhau thực hiện. Ngày 25/12/2014 ông Phạm Văn S có gửi 2.100kg cà phê nhân quy chuẩn tại DNTN P. Chúng tôi thỏa thuận khi nào ông S có nhu cầu bán cà phê thì bán cho chúng tôi theo giá thị trường tại thời điểm bán. Ngày 14/5/2015, ông S đã bán cho chúng tôi 800kg cà phê, số cà phê nhân quy chuẩn còn lại là 1.300kg chúng tôi vẫn còn giữ của ông S chưa trả lại. Mặc dù ông S đã nhiều lần yêu cầu chúng tôi trả lại số cà phê nhân quy chuẩn 1.300kg nhưng do công việc làm ăn của doanh nghiệp thua lỗ, gia đình khó khăn, nợ nhiều người nên cho đến nay tôi và ông P vẫn chưa trả lại số cà phê trên cho ông S.
Nay ông S khởi kiện, bà Đ đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông S. Bà Đ đề nghị Tòa án buộc ông P có nghĩa vụ liên đới cùng với bà Đ trả lại cho ông S số cà phê nhân quy chuẩn là 1.300kg, với giá là 40.000 đồng/kg, quy thành tiền là 52.000.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn Xuân P đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông P không đến Tòa án để tham gia tố tụng và không có lời khai cung cấp cho Tòa án.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn là ông Phạm Văn S giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn là bà Vũ Thị Đ giữ nguyên những ý kiến đã trình bày trong quá trình tham gia tố tụng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Xuân P vắng mặt không có lý do. Các đương sự có mặt tại phiên tòa đồng ý sử dụng kết quả xác minh giá cà phê nhân quy chuẩn là 40.000đồng/kg, theo Biên bản xác minh ngày 06/11/2017 (ngày xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm) của Tòa án nhân dân huyện Chư Sê tại Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Chư Sê để làm căn cứ xác định giá cà phê.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm như sau:
Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký Tòa án kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ án cho đến thời điểm xét xử và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa về cơ bản đã đảm bảo các quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án: Trên cơ sở lời trình bày của các đương sự và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn là bà Vũ Thị Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Xuân P phải liên đới trả cho bà ông Phạm Văn S 1.300kg cà phê nhân quy chuẩn với giá là 40.000đ/kg, quy thành tiền là 52.000.000 đồng. Buộc bà Đ, ông P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật và hoàn trả cho ông S toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra, xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn Xuân P đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan và không có yêu cầu độc lập nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông P là đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ tranh chấp và yêu cầu của các đương sự:
Nguyên đơn là ông Phạm Văn S khởi kiện yêu cầu bị đơn là bà Vũ Thị Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn Xuân P phải hoàn trả 1.300kg cà phê nhân quy chuẩn mà ông S đã gửi cho bà Đ, ông P vào ngày 25/12/2014, với giá là 40.000đ/kg, quy thành tiền là 52.000.000 đồng. Kèm theo yêu cầu khởi kiện của mình, ông S đã cung cấp cho Tòa án chứng cứ là “Phiếu nhập hàng gửi kho đề ngày 25/12/2014 của DNTN P”. Nội dung của phiếu nhập hàng thể hiện việc DNTN P có nhận 2.100kg cà phê nhân quy chuẩn của ông Phạm Văn S vào ngày 25/12/2014, ngày 14/5/2015 ông S bán 800kg cà phê nhân quy chuẩn với giá 38.000đ/kg, thành tiền 30.400.000đ và còn gửi lại 1.300kg cà phê nhân quy chuẩn. Để chứng minh việc ông P công nhận có nợ mình 1.300kg cà phê nhân quy chuẩn, ông Phạm Văn S đã cung cấp cho Tòa án “Đơn khởi kiện bổ sung ngày 26/10/2015 về việc ly hôn và chia tài sản chung, nợ chung trong thời kỳ hôn nhân”, người khởi kiện là ông Nguyễn Xuân P, người bị kiện là bà Vũ Thị Đ. Tại nội dung của đơn khởi kiện này ông P đã thừa nhận và nêu trong phần yêu cầu giải quyết nợ chung trong thời kỳ hôn nhân của ông và bà Đ khoản nợ 1.300kg cà phê nhân quy chuẩn của ông S.
Bị đơn bà Vũ Thị Đ đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn S và đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Xuân P phải liên đới trả cho ông S 1.300kg cà phê nhân quy chuẩn, với giá là 40.000đ/kg, quy thành tiền là 52.000.000 đồng. Vì đây là nợ chung của ông bà phát sinh trong thời kỳ hôn nhân. Quá trình giải quyết vụ án, bà Đ đã cung cấp cho Tòa án Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mã số 5900975015, đăng ký lần đầu ngày 16/12/2013 của Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Gia Lai, tên doanh nghiệp là DNTN P; theo lời khai của bà Đ thì mặc dù bà là người đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp nhưng DNTN P được thành lập trong thời kỳ hôn nhân của bà và ông P; trong quá trình kinh doanh, ông P là người trực tiếp cân đo, kiểm tra quy cách, phẩm chất hàng hóa, nhập hàng vào kho và trả tiền cho người dân; mặt khác nguồn lợi nhuận từ việc kinh doanh của doanh nghiệp được bà Đ, ông P sử dụng để trả tiền vay của ngân hàng, chi tiêu trong gia đình và tái đầu tư công việc kinh doanh.
Đối với ông Nguyễn Xuân P, trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, ông P đã được thông báo về việc thụ lý vụ án, được thông báo, triệu tập đến Tòa án để trình bày ý kiến, tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, được nhận các biên bản về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và biên bản về việc không tiến hành hòa giải được thể hiện nội dung khởi kiện của nguyên đơn, ý kiến trình bày của bị đơn nhưng ông P đều không đến Tòa án. Điều này thể hiện ông P không có thiện chí tự nguyện thỏa thuận giải quyết các vấn đề có tranh chấp với ông S, bà Đ và từ bỏ các quyền, lợi ích của bản thân với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng trong vụ án.
Xét yêu cầu khởi kiện của ông S là buộc bị đơn bà Đ và ông P phải có nghĩa vụ liên đới trả 1.300kg cà phê nhân quy chuẩn, quy thành tiền là 52.000.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy rằng khoản nợ này phát sinh trong thời kỳ hôn nhân của bà Đ và ông P, do đó có căn cứ để xác định đây là nợ chung của ông bà. Căn cứ Điều 27 và Điều 37 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì bà Đ và ông P có nghĩa vụ liên đới đối với nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, do đó cần buộc bà Đ và ông P phải liên đới trả cho ông S số cà phê nợ như trên, theo yêu cầu khởi kiện của ông S.
Xét về giá cà phê nhân quy chuẩn là 40.000đồng/kg, theo Biên bản xác minh ngày 06/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Chư Sê tại Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Chư Sê. Hội đồng xét xử làm căn cứ xác định giá cà phê để quy thành tiền theo yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Tại phiên tòa, bị đơn đồng ý quy giá trị của 1.300 kg cà phê nhân quy chuẩn thành tiền để trả cho nguyên đơn, theo yêu cầu của nguyên đơn.
Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận thấy việc bà Đ, ông P còn giữ, chưa trả của ông S 1.300kg cà phê nhân quy chuẩn là có thật. Nay ông S khởi kiện yêu cầu bị đơn là bà Đ và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông P phải hoàn trả cho ông S 1.300kg cà phê nhân quy chuẩn, với giá là 40.000đ/kg, quy thành tiền là 52.000.000 đồng, là có căn cứ và nên được chấp nhận.
[3] Về tiền công gửi giữ: Các đương sự đều không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý trong vụ án này.
[4] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Phạm Văn S được chấp nhận toàn bộ nên bị đơn là bà Vũ Thị Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Xuân P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Ông Phạm Văn S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 92, khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 264, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Áp dụng Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 302, Điều 468, Điều m559, Điều 561, Điều 562 và Điều 564 Bộ luật Dân sự năm 2005;
Áp dụng Điều 27, Điều 37 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Phạm Văn S.
2. Buộc bị đơn là bà Vũ Thị Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Xuân P có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Phạm Văn S 52.000.000 đồng (Năm mươi hai triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án người được thi hành án, cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc bị đơn là bà Vũ Thị Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Xuân P phải nộp 2.600.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.
Nguyên đơn là ông Phạm Văn S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho ông Phạm Văn S toàn bộ số tiền tạm ứng án phí là 1.527.000đ (Một triệu năm trăm hai mươi bảy nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0001449 ngày 03/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
4. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.
Bản án 22/2017/DS-ST ngày 06/11/2017 về tranh chấp kiện đòi tài sản
Số hiệu: | 22/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chư Sê - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 06/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về