Bản án 221/2020/HS-PT ngày 13/03/2020 về huỷ hoại tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 221/2020/HS-PT NGÀY 13/03/2020 VỀ HUỶ HOẠI TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 3năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội,xét xửphúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩmđã thụ lý số 151/2020/TLPT-HS ngày 21/01/2020 đối với bị cáo:Mầu Tiến Tdo có kháng cáo của bị hại Trần Đình Trđối với Bản án hình sự sơ thẩm số 104/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội:

* Bị cáo không kháng cáo: Mầu Tiến T, sinh năm: 1990 tại Hà Nội; Giới tính: Nam; Đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Thôn XX, xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Quốc tịch:Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông:MTT; Con bà: Nguyễn Thị K; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 124 ngày 18/02/2019 lập tại Công an huyện Hoài Đức; Bị tạm giữ từ ngày 14/02/2019 đến ngày 23/02/2019; Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại có kháng cáo: ÔngTrần Đình Tr, sinh năm 1969; Nơi cư trú: Thôn 9 xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội;có mặt.

* Bị hại không kháng cáo: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1975; Nơi cư trú: Thôn 9 xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội; có mặt.

* Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo:

- Anh Nguyễn HT, sinh năm 1997; Nơi cư trú: Thôn TK, xã SS, huyện QO, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

- Anh Nguyễn Như L, sinh năm 1999; Nơi cư trú: Đội 2 xã BK, huyện KC, tỉnh Hưng Yên; vắng mặt.

- Anh Phạm Tm, sinh năm 1989; Nơi cư trú: Thôn 9 xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội;vắngmặt.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hạiLuật sư Lương Thành Đ – Công ty Luật TNHH VCL; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 07/2018 và tháng 10/2018, anh Phạm Tm (Sinh năm 1989) cùng vợ là chị Nguyễn Thị Lg (Sinh năm 1997) cùng có nơi cư trú: Thôn 9, xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội, nhận chuyển nhượng quyền sử sụng 02 mảnh đất nông nghiệp theo trích lục bản đồ là thửa đất số 11 và thửa đất số 14 tại Khu Cửa Chùa, xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội của ôngTrần Đình Tr(sinh năm 1969, Nơi cư trú: Thôn 9, xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội). Sau đó, anh Tm nhờ Mầu Tiến T(sinh năm 1990, Nơi cư trú: Thôn 7, xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội) hoàn thiện các thủ tục chuyển nhượng giữa hai người nhưng chưa thực hiện được. Khoảng 10 giờ ngày 29/01/2019, Mầu Tiến T đang ở nhà và gọi điện cho ông Tr để hỏi về việc làm các thủ tục chuyển nhượng còn thiếu thì ông Tr nói không làm được nên T nảy sinh ý định chặt phá cây giống của gia đình ông Tr trồng trên thửa đất số 14 tại Khu Cửa Chùa, thôn Cát Ngòi, xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội nhằm mục đích ép ông Tr phải làm xong thủ tục.Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, T lấy 03 (ba) con dao phay ở nhà và bọc vào miếng vải giấu vào trong người để đi xuống vườn bưởi của gia đình ông Tr đang trồng trên thửa đất ở Khu Cửa Chùa, thôn Cát Ngòi, xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội. T điều khiển xe mô tô Dream biển số 29N6-xxxx đi xuống nhà anh Phạm Tm ở thôn 9, xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội để xem có ai thì rủ đi cùng. Khi xuống đến nhà anh Tm, T gặp Nguyễn HT(sinh năm 1997, HKTT: thôn Tk, xã SS, huyện QO, thành phố Hà Nội) và Nguyễn Như L(sinh năm 1999, HKTT: Đội 2, xã Bk, huyện KC, tỉnh Hưng Yên) đang ở nhà của anh Tm còn Tm không có ở nhà, T rủ HT và L: “Đi ra đây có việc với anh” thì HT , L đồng ý. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô chở HT và L ngồi sau, đến vườn bưởi của ông Tr thì dừng xe. T lấy 03 (ba) con dao phay đưa cho HT và L mỗi người một con dao và bảo xuống chặt cây để ít nữa quây vườn. Sau đó, T đi trước, HT và L đi sau, cả ba cùng chặt cây bưởi giống của gia đình ông Tr ở hai luống, chặt được khoảng 15 phút thì dừng lại, HT , L đưa dao cho T dùng miếng vải bọc lại. Cả ba đi lên đường bê tông giáp thửa ruộng thì gặp vợ ông Tr là bàNguyễn Thị C(sinh năm 1975, HKTT: Thôn 9, xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội),bà C hỏi: “Chúng mày làm gì đấy?” thì cả ba không nói gì và lên xe mô tô Honda Dream BKS 29N6-xxxx. T chuyển 03 (ba) con dao bọc trong miếng vải cho người ngồi giữa xe (không nhớ là ai) để T điều khiển xe mô tô chở L và HT đi về nhà anh Phạm Tm. Khi về đến nhà anh Tm, T đem 03 (ba) con dao cất xuống bếp nhà anh Tm và đi về, còn HT và L vẫn ở lại nhà anh Tm.

* Vật chứng đã thu giữ:

- 01 chiếc xe mô tô Honda Dream BKS 29N6-xxxx, số khung RLHHA0800IY042028; sốmáy 0042048, xe đã qua sử dụng, do T tự nguyện giao nộp.

- 03 (ba) con dao phay trong đó (01 con dao dài 55cm, lưỡi dao bằng kim loại chiều dài 40cm, chuôi dao bằng gỗ dài 15cm, chỗ lưỡi dao rộng nhất 07cm; 02 con dao dài 45cm, lưỡi dao bằng kim loại chiều dài 33cm, chuôi dao bằng gỗ dài 12cm, chỗ lưỡi dao rộng nhất 7,5cm, thu giữ tại nhà Phạm Tm).

- Hình ảnh camera thu tại nhà anh Nguyễn Duy S (sinh năm 1977, HKTT: Thôn 9, xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội).

* Tại Kết luận định giá tài sản số 42/KL-ĐGTS ngày 14/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Hoài Đức kết luận: 3000 (ba nghìn) cây bưởi Diễn loại cây giống, đã ghép mắt, cây cao trung bình 45cm; đường kính gốc trung bình 01cm. Có giá: 41.720.000 đồng, trong đó:

+ 2.600 (hai nghìn sáu trăm) cây bị hư hỏng hoàn toàn không phục hồi được. Có giá 36.400.000 đồng.

+ 400 (bốn trăm) cây bị hư hỏng có thể phục hồi được, giá trị còn khoảng 05%. Có giá 5.320.000 đồng.

Tổng số tiền tài sản cần định giálà: 41.720.000 đồng (Bốn mươi mốt triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng) Đối với Nguyễn HT và Nguyễn Như L: Mầu Tiến Tkhai khi rủ HT và L đi chặt phá cây bưởi giống của gia đình ông Tr,T không nói mục đích đi đâu, không có sự bàn bạc từ trước; khi đến vườn bưởi của gia đình ông Tr,T không nói rõ vườn bưởi đó là của ai, chỉ nói “chặt cây để ít nữa quây vườn”. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hoài Đức đã nhiều lần tiến hành triệu tập nhưng HT và Lđể làm rõ sự việc nhưng HT và L đều không có mặt tại địa phương. Vì vậy, chưa làm rõ được ý thức chủ quan của HT và L về hành vi chặt cây bưởi của gia đình ông Tr. Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy tìm đối với HT và L, khi nào làm rõ được sẽ xem xét, xử lý sau theo quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe mô tô Honda Dream BKS 29N6-xxxx, số khung RLHHA0800IY042028; số máy 0042048, Mầu Tiến T mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực gần chợ xe ngoài thành phố Hà Nội vào đầu năm 2018 với giá 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Qua xác minh, tên chủ xe mô tô trên là bà Trần Thị Ch (Sinh năm 1950, HKTT: SN 11, NX 3, phương MK, quận BTL, thành phố Hà Nội). Bà Ch xác nhận, do không có nhu cầu sử dụng nên bà đã bán chiếc xe mô tô trên nhưng không nhớ bán cho ai vào thời gian nào. Đồng thời, chiếc xe mô tô trên không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng.

Ngày 15/04/2019, ông Trần Đình Tr và bà là Nguyễn Thị C yêu cầu T phải bồi thường số tiền 60.000.000 đồng cho gia đình ông Tr.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Mầu Tiến Tđã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị can phù hợp với lời khai người làm chứng, bị hại, vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 104/2019/HSST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức đã quyết định: Tuyên bố Mầu Tiến T phạm tội Huỷ hoại tài sản; Áp dụng: khoản 1 Điều 178; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Mầu Tiến T 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ trước đó. Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày23/12/2019, bị hại là ông Trần Đình Trkháng cáo một phần bản án liên quan đến vấn đề bồi thường tổn thất về tài sản bị thiệt hại; đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét buộc bị cáo bồi thường theo thực tế thiệt hại là 135.000.000 đồng. Bị cáo, bị hại Nguyễn Thị C và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị Bản án.

*Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị hại Trần Đình Tr giữ nguyên kháng cáo,khai như đã khai tại phiên tòa sơ thẩm và tại Cơ quan điều tra. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét buộc bị cáo bồi thường theo thực tế thiệt hại là 135.000.000 đồng, đồng thời đề nghị làm rõ những người chủ mưu, đồng phạm với bị cáo để xửu lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo khai như đã khai tại phiên toà sơ thẩm và tại Cơ quan điều tra. Công nhận việc truy tố, xét xử tại cấp sơ thẩm là đúng, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xét xử theo quy định của pháp luật.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có ý kiến tranh luận cho rằng việc định giá tài sản bị thiệt hại chưa sát với giá thị trường; Cơ quan điều tra chưa thông báo kết quả định giá cho bị hại là vi phạm thủ tục tố tụng. Đề nghị Hội đồng xét xử cho định giá lại để bảo vệ quyền lợi của bị hại và xử lý bị cáo đúng quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:Về tố tụng: Kháng cáo của bị hạilà hợp lệ, cần được xem xét, giải quyếttheo thủ tục phúc thẩm. Về nội dung: Bản án sơ thẩm kết án bị cáo về tội Huỷ hoại tài sản là đúng pháp luật. Mức bồi thường bản án sơ thẩm đã tuyên là có căn cứ, phù hợp với kết quả định giá tài sản. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị hại Tr, giữ nguyên mức bồi thường bản án sơ thẩm đã tuyên. Các nội dung khác của bản án sơ thẩm đã phù hợp với quy định pháp luật nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về tố tụng:

Kháng cáo của bị hại Trần Đình Trđược làm trong thời hạn luật định, bảo đảm về chủ thể kháng cáo theo Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; hình thức và nội dung đơn kháng cáo phù hợp với quy định của pháp luật. Do vậy, kháng cáo của ông Trlà hợp lệ, được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2].Về nội dung:

[2.1] Về tội danh đối với bị cáo:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp lời khai củangười làm chứng, lời khai các bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Giữa anh Phạm Tm và ôngTrần Đình Tr có giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Anh Phạm Tm có nhờ Mầu Tiến T đại diện đứng ra làm thủ tục với ông Tr. Do ông Tr không thực hiện theo các yêu cầu của Tnên bị cáo nảy sinh ý định đi chặt phá cây bưởi giống của gia đình ông Tr trồng trên diện tích thửa ruộng chuyển nhượng, nhằm mục đích ép ông Tr phải làm xong thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 29/01/2019, T rủ Nguyễn HT cùng Nguyễn Như L đi cùng T. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, cả ba đến khu vực ruộng của gia đình ông Tr tại khu Cửa Chùa, thôn Cát Ngòi, xã CQ, huyện HĐ, thành phố Hà Nội. Tại đây, Mầu Tiến T đưa dao đã chuẩn bị từ trước cho Nguyễn HT, Nguyễn Như L. Cả ba đã dùng dao chặt khoảng 3000 cây bưởi giống của gia đình ôngTrần Đình Tr khi không được sự đồng ý của gia đình ông Tr. Theo kết quả định giá của cơ quan chuyên môn, tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 41.720.000 (bốn mươi mốt triệu bảy trăm hai mươi nghìn) đồng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm luật hình sự, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây lo lắng cho nhân dân. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ýhuỷ hoạt và làm hư hỏng tài sản của người khác với tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 41.720.000 đồng. Do đó,Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội Huỷ hoại tài sản là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2] Xét kháng cáo của bị hạiTrần Đình Tr:

Sau khi xét xử sơ thẩm bị hạilà ông Tr có đơn kháng cáomột phần bản án liên quan đến vấn đề bồi thường tổn thất về tài sản bị thiệt hại; đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét buộc bị cáo bồi thường theo thực tế thiệt hại là 135.000.000 đồng.Hội đồng xét xử xét thấy:

- Ngay sau khi xảy ra vụ án, ngày 30/01/2019, Công an huyện Hoài Đức, cùng với chính quyền địa phương, các bị hại, bị cáo đã tiến hành thông kê tài sản bị thiệt hại và xác định tài sản bị thiệt hại gồm:2.600 (hai nghìn sáu trăm) cây bị hư hỏng hoàn toàn không phục hồi được và 400 (bốn trăm) cây bị hư hỏng có thể phục hồi được, giá trị còn khoảng 05%.

- Tại Kết luận định giá tài sản số 42/KL-ĐGTS ngày 14/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Hoài Đức kết luận: 3000 (ba nghìn) cây bưởi Diễn loại cây giống, đã ghép mắt, cây cao trung bình 45cm; đường kính gốc trung bình 01cm. Trong đó: 2.600 (hai nghìn sáu trăm) cây bị hư hỏng hoàn toàn không phục hồi được, có giá 36.400.000 đồng; 400 (bốn trăm) cây bị hư hỏng có thể phục hồi được, giá trị còn khoảng 05%, có giá 5.320.000 đồng).Tổng số tiền tài sản cần định giálà: 41.720.000 đồng (bốn mươi mốt triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng).

- Tại các Biên bản ghi lời khai bà C, ông Tr đều khai các cây bưởi giống trên nếu bán buôn giá khoảng 20.000 đồng/1 cây (bút lục 135, 137; 156, 167).Tại đơn xin thoả thuận giải quyết ngày 19/02/2019 (bút lục 168), ông Tr và bà C còn đồng ý nhận mức bồi thường là 30.000.000 đồng cho toàn bộ thiệt hại xảy ra từ gia đình bị cáo.

Xét thấy:Việc định giá tài sản bị thiệt hại được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Kết quả định giá đã được thông báo cho các bị hại (bút lục 169), các bị hại đều không có ý kiến, không có khiếu nại gì về kết quả định giá. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Tr kháng cáo cho rằng giá trị tài sản bị thiệt hại thực tế là 135.000.000 đồng, lớn hơn giá trị mà Hội đồng định giá đã kết luận, nhưng không đưa ra tài liệu nào để chứng minh. Vì vậy, Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Tr về việc tăng mức bồi thường lên 135.000.000 đồng và không chấp nhận yêu cẩu của người bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại về việc tiến hành định giá lại.

[2.3]Về các nội dung khác:

* Tại phiên toà phúc thẩmông Trcó ý kiến cho rằng cấp các Cơ quan tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, chưa xem xét trách nhiệm của Phạm Tm và các đối tượng Nguyễn HT, Nguyễn Như L. Về nội dung này, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy:

- Quá trình điều tra, bị cáo Mầu Tiến T khai đã cùng với Nguyễn HT và Nguyễn Như Lđến chặt, phá vườn cây bưởi giống của gia đình ông Tr. Nhưng T không nói cho HT, L biết đó là vườn cây nhà ai và lý do chặt phá là gì, mà chỉ nói“chặt cây để ít nữa quây vườn”. Cơ quan điều tra đã nhiều lần triệu tập HT và L để làm rõ sự việc, nhưng HT và L đã đi khỏi nơi cư trú, hiện không rõ ở đâu. Vì vậy, chưa làm rõ được ý chí chủ quan của HT và L khi tham gia cùng với T chặt phá cây của gia đình ông Tr, nên chưa đủ cơ sở để khởi tố bị can đối với HT và L. Cơ quan điều tra đã ra Thông báo truy tìm đối tượng đối với HT và L để tiếp tục điều tra, xử lý sau. Do đó, ý kiến của ông Tr cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm là không có cơ sở.

- Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm cũng kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hoài Đức và Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Đức tiếp tục điều tra, làm rõ hành vi của HT, L vàtừ lời khai của những người này làm rõ Tm vai trò của Phạm Tm, nếu có cơ sở xác định những người này đồng phạm với bị cáo T thì khởi tố, điều tra, truy tố theo đúng quy định của pháp luật.

* Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

*Về án phí: Kháng cáo của bị hạikhông được chấp nhận nên người kháng cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

* Không chấp nhận kháng cáo của bị hại Trần Đình Tr về việc đề nghị tăng trách nhiệm bồi thường dân sự của bị cáo.Giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 104/2019/HSST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội về phần bồi thường dân sự, cụ thể như sau:

- Áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự; Các Điều 357, 468, 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Mầu Tiến T phải bồi thường thiệt hại cho ôngTrần Đình Tr và bàNguyễn Thị C số tiền 41.720.000 (bốn mươi mốt triệu bảy trăm hai mươi nghìn) đồng.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành) cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

2. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Về án phí:Bị hại là ông Trần Đình Tr phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

402
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 221/2020/HS-PT ngày 13/03/2020 về huỷ hoại tài sản

Số hiệu:221/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;