Bản án 220/2021/DS-PT ngày 26/04/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu vô hiệu hợp đồng thế chấp và yêu cầu hủy quyết định hành chính 

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 220/2021/DS-PT NGÀY 26/04/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU VÔ HIỆU HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP VÀ YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH 

Ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 10/2020/TLPT-DS ngày 07 tháng 01 năm 2020 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu vô hiệu hợp đồng thế chấp và yêu cầu hủy quyết định hành chính”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 39/2019/DS-ST ngày 09/09/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 627/2021/QĐPT-DS ngày 02 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Phan Huy H, sinh năm 1959 (có mặt) Địa chỉ: 101/3 tổ 2, ấp 3, xã L, huyện T, tỉnh Long An - Bị đơn:

1/ Bà Phan Thị Đ, sinh năm 1964 (có mặt)

2/ Ông Hà Văn Đ1, sinh năm 1960 (có mặt) Cùng địa chỉ: Ấp 2, xã L, huyện T, tỉnh Long An.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Nguyễn Thái Th – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt) Địa chỉ: 318A Chánh H, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :

1/ Anh Hà Thanh K, sinh năm 1991 (xin vắng mặt) 2/ Chị Trần Thị Bích T, sinh năm 1992 (xin vắng mặt) 3/ Anh Hà Thanh T1, sinh năm 1983 (có mặt) 4/ Chị Nguyễn Thị Ngọc H1, sinh năm 1983 (xin vắng mặt) 5/ Anh Hà Thanh T2, sinh năm 1989 (có mặt) 6/ Chị Trương Thị Mỹ H2, sinh năm 1992 (xin vắng mặt) 7/ Anh Hà Thanh N, sinh năm 1986 (xin vắng mặt) 8/ Chị Huỳnh Thị Đ, sinh năm 1982 (xin vắng mặt) 9/ Chị Hà Thị Như Y, sinh năm 1996 (xin vắng mặt) Cùng địa chỉ: Ấp 2, xã L, huyện T, tỉnh Long An 10/ Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Văn T3 – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Long An (xin vắng mặt) (Văn bản ủy quyền ngày 11/12/2020) 11/ Ngân hàng Thương mại Cổ phần C– Chi nhánh Long An (xin vắng mặt).

Địa chỉ trụ sở chi nhánh: số 396 Quốc lộ 1, phường 4, thành phố A, Long An Người đại diện theo ủy quyền:

- Ông Phạm Văn Tân B – Trưởng phòng Giao dịch Mộc Hóa - Ngân hàng Thương mại Cổ phần C– Chi nhánh Long An. (vắng mặt) - Ông Lê Quang N1 – Trưởng phòng Giao dịch Đức Hòa Nam - Ngân hàng Thương mại Cổ phần C– Chi nhánh Long An. (vắng mặt) - Ông Nguyễn Hoàng L – Trưởng phòng KHDN - Ngân hàng Thương mại Cổ phần C– Chi nhánh Long An (vắng mặt) 12/ Công ty Trách nhiệm hữu hạn D (vắng mặt) Địa chỉ: số 25/18B đường số 3, khu phố 2, phường B, Quận 2 (nay là thành phố Đ), Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn là ông Phan Huy H và bị đơn là ông Hà Văn Đ1, bà Phan Thị Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 24/02/2017, đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 22/7/2019, các bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Phan Huy H trình bày:

Ngày 07/6/1987, ông Phan Huy H làm đơn xin Ủy ban nhân dân (UBND) xã L, huyện T, tỉnh Long An cấp đất khai hoang tại ấp 2, xã Long Thạnh và được chấp nhận. Sau khi được giao đất, ông H thuê người nạo vét kênh mương phát cỏ, cày xới lại đất để chờ chương trình khai hoang của xã xong mới tiến hành sản xuất. Đến năm 1989, ông H cho vợ chồng em gái là bà Phan Thị Đ, ông Hà Văn Đ1 ở nhờ và canh tác trên 02ha đất cặp kênh Cái Sơn. Phần đất còn lại ông H cho người khác thuê canh tác. Ông H có hứa là khi nào ông có giấy chủ quyền, sẽ bán lại 1/2 diện tích cho ông Đ1, bà Đ.

Ngày 20/9/1994, UBND huyện T ra Quyết định số 620/UB/QĐ.94 giao cho ông H lô đất 7ha để khai hoang sản xuất đất nông nghiệp, việc giao đất không có đo đạc thực tế.

Năm 1995, ông H giao toàn bộ lô đất này cho ông Đ1, bà Đ quản lý, sản xuất và thoả thuận đến khi ông H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) sẽ bán cho vợ chồng bà Đ 1/2 diện tích đất như đã hứa trước đây. Từ sau khi giao đất cho ông Đ1, bà Đ thì ông H đi tỉnh Miền Đông lập nghiệp nên không hề biết việc kê khai cấp GCNQSDĐ.

Năm 2003, ông H mới phát hiện ông Đ1, bà Đ đã làm thủ tục kê khai và được cấp GCNQSDĐ trên toàn bộ diện tích đất này. Ông H nhiều lần đòi lại nhưng vợ chồng ông Đ1, bà Đ không trả. Ông H đưa ra nhiều phương án như: chỉ yêu cầu ông Đ1, bà Đ trả cho ông 100.000.000 đồng hoặc trả lại cho ông 2,5ha đất thì ông không tranh chấp nữa nhưng ông Đ1, bà Đ không chấp nhận. Do thời gian thương lượng kéo dài, vợ chồng ông Đ1, bà Đ cương quyết không trả đất nên ông mới khởi kiện tại Tòa án.

Diện tích đất theo GCNQSDĐ của ông Đ1, bà Đ là 79.615m2, nhưng diện tích đo đạc thực tế hiện nay còn lại là 70.266m2. Diện tích giảm do Nhà nước thu hồi đất mở rộng lộ N2, chừa đường nước công cộng và kênh xáng. Khi mở lộ N2 thì UBND huyện T thu hồi 5.546,9m2 thuộc GCNQSDĐ của ông Đ1 (gồm 557,8m2 đất thổ cư và 4.989,1m2 đất nông nghiệp thuộc thửa 317), ông Đ1 và bà Đ được Nhà nước bồi thường về giá trị đất là 26.417.750 đồng. Diện tích Quốc lộ N2 đi qua đất đo đạc là 5.520,7m2 nên đất bị thu hồi được xác định là 5.520,7m2.

Đối với Khu F, diện tích 2.592,3m2 tại Mảnh trích đo bản đồ địa chính do Công ty TNHH Đo đạc Nhà đất Hưng Phú lập ngày 07/5/2018 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Thủ Thừa duyệt ngày 10/5/2018, bà Đ chưa được cấp giấy chứng nhận (GCN) nên ông không tranh chấp.

Nay ông H yêu cầu:

- Buộc bà Phan Thị Đ và ông Hà Văn Đ1 phải trả lại diện tích đất 37.893,35m2 [1/2 của 75.786,7m2 = 70.266m2 din tích thực tế còn lại + 5520,7m2 din tích đất nhà nước thu hồi lộ N2 bao gồm các thửa đất 314, 317, 661, 336, 315 (thửa mới 352), 339 (thửa mới 372), 361 (thửa mới 392), cùng tờ bản đồ số 11 xã L, huyện T, tỉnh Long An] thuộc một phần các thửa: 661, 336, 352, 372, 392, phần đất không gắn liền nhà của bị đơn và cặp đường nước công cộng (thuộc Khu A2, B2, C2, D2, E2 tại Mảnh trích đo phân khu của Công ty TNHH Đo đạc Nhà đất Hưng Phú lập ngày 22/8/2019).

- Hủy một phần GCNQSDĐ số I 169869 do UBND huyện T cấp ngày 20/12/1996 cho bà Phan Thị Đ đối với phần diện tích mà bà Đ phải trả cho ông H thuộc một phần các thửa: 352, 372, 392 cùng tờ bản đồ số 11 xã L, huyện T, tỉnh Long An.

- Hủy GCNQSDĐ số X 207893 do UBND huyện T cấp ngày 09/9/2003 cho ông Hà Văn Đ1 ngày 15/7/2013 đối với phần diện tích mà ông Đ1 phải trả cho ông H thuộc một phần các thửa: 661, 336 cùng tờ bản đồ số 11 xã L, huyện T, tỉnh Long An.

- Tuyên bố vô hiệu một phần: Hợp đồng thế chấp số 1655.0112/HĐTC ngày 01/12/2016 giữa Ngân hàng TMCP C với ông Hà Văn Đ1 và Phan Thị Đ đối với ½ diện tích của các thửa đất 661 (mpt 317 cũ), 336 tờ bản đồ số 11 do ông Hà Văn Đ1 đứng tên GCNQSDĐ.

- Yêu cầu ông Đ1, bà Đ tháo dỡ di dời tài sản trên phần đất mà ông H được hoàn trả.

Bị đơn Phan Thị Đ, ông Hà Văn Đ1 do ông Trần Văn Cường đại diện theo uỷ quyền ở cấp sơ thẩm trình bày:

Các thửa đất ông H đang tranh chấp theo 02 tờ Trích đo bản đồ địa chính do Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú lập cùng ngày 07/5/2017, được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Thủ Thừa duyệt ngày 08/5/2018 và ngày 10/5/2018 có nguồn gốc được UBND xã Long Thạnh giao cho ông H khai hoang vào năm 1987 theo đơn xin cấp đất khai hoang của ông H. Nhưng năm 1988 vợ chồng ông H bán cho vợ chồng bà Đ toàn bộ lô đất với giá 5 chỉ vàng, ông Đ1 bà Đ đã giao đủ vàng cho vợ chồng ông H. Việc mua bán không lập thành văn bản vì đất còn là đất hoang và là anh em ruột nên tin tưởng. Sau khi nhận đất vợ chồng bà Đ phát cỏ, cải tạo đất hàng năm cho đến nay. Năm 1989 bà Đ bán cho em thứ 9 là Phan Thành Đ2 1/2 diện tích 50m ngang, chiều dài hết đất, cặp đường nước với giá là 2,5 chỉ vàng, việc mua bán cũng không lập thành văn bản. Năm 1991 ông Đ2 khai vỡ được khoảng 300m chiều dài thì bán lại cho bà Đ với giá 12 chỉ vàng 24k vì không thể khai vỡ tiếp. Sau khi nhận lại đất từ ông Đ2 thì vợ chồng bà Đ cải tạo và canh tác cho đến nay. Ông H không sử dụng hay cho người khác thuê đất.

Ngày 21/10/1994, ông Đ1 được UBND huyện cấp quyết định giao đất khai hoang số 730/UB/QĐ.94 đối với phần đất này. Năm 1996 bà Đ được cấp GCNQSDĐ đối với các thửa 315 (thửa mới là 352), thửa 339 (thửa mới 372), thửa 361 (thửa mới 392), năm 2003, ông Đ1 được cấp GCNQSDĐ đối với các thửa 314, 317 (thửa mới sau khi mở lộ N2 là 317, 661), 336, cùng tờ bản đồ số 11, xã L, huyện T, tỉnh Long An. Tổng diện tích đất ông Đ1, bà Đ được cấp theo GCNQSDĐ là 79.615m2, (diện tích theo đo đạc thực tế hiện nay là 70.266m2, không bao gồm 2.592,3m2 thuộc khu F).

Nay ông Đ1, bà Đ không đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và có yêu cầu phản tố: hủy Quyết định số 620/UB/QĐ.94 ngày 20/9/1994 của UBND huyện T cấp cho ông H.

Các thửa đất trên hiện nay ông Đ1, bà Đ đang thế chấp tại Ngân hàng TMCP C- Chi nhánh Long An để đảm bảo cho khoản vay của bà Nguyễn Thị Ngọc H1 và ông Hà Thanh T1. Hơn nữa, ông Đ1, bà Đ đã tặng cho các con mỗi người một phần đất theo Biên bản thẩm định tại chỗ ngày 17/9/2018, việc tặng cho chưa lập thành văn bản. Ông Đ1, bà Đ không yêu cầu giải quyết vấn đề gì đối với việc tặng cho này.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Các ông, bà Hà Thanh K, Trần Thị Bích T, Hà Thanh T1, Nguyễn Thị Ngọc H1, Hà Thanh T2, Trương Thị Mỹ H2, Hà Thanh N, Huỳnh Thị Đ trình bày: các ông bà là con và con dâu của ông Đ1, bà Đ, đang sinh sống trên phần đất tranh chấp. Nay ông H tranh chấp thì các ông, bà thống nhất với lời trình bày của cha mẹ, không có yêu cầu giải quyết vấn đề gì trong vụ án. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H thì phải trả lại giá trị tài sản.

2/ Theo công văn số 959/UBND-NC ngày 31/5/2019, UBND huyện T trình bày:

UBND huyện T ban hành Quyết định số 620/UB/QĐ.94 ngày 20/9/1994 về việc cấp đất khai hoang cho ông Phan Huy H, diện tích 70.000m2 theo đơn xin khai khẩn đất hoang được UBND xã Long Thạnh và Ban kinh tế - kế hoạch xã xác nhận (theo hồ sơ do ông H cung cấp). Mục đích giao đất cho ông H là để khai hoang. Kể từ thời điểm ông H được giao đất theo Quyết định 620/UB/QĐ.94 thì ông H có quyền sử dụng diện tích đất được giao và có nghĩa vụ khai hoang để đưa đất vào sản xuất, nếu ông H không thực hiện việc khai hoang thì sau thời hạn 01 năm nhà nước sẽ thu hồi quyết định cấp đất khai hoang để giao cho người khác có nhu cầu canh tác. Trường hợp ông H bán hay tặng cho phần đất khai hoang cho người khác tiếp tục khai hoang, sử dụng trước khi ông H được cấp Quyết định 620 thì Quyết định 620/QĐ.94 ngày 20/9/1994 là không phù hợp vì không đúng đối tượng được cấp đất. Tuy nhiên, diện tích đất khai hoang lớn, thiếu sức lao động, nếu ông H cho người khác thuê, mướn hoặc mượn để tiếp tục khai hoang, đưa đất vào sản xuất trước khi được cấp Quyết định 620 thì Quyết định 620/UB.94 ngày 20/9/1994 là phù hợp và đúng đối tượng được cấp đất (Điều 78 Luật Đất đai 1993).

Trường hợp sau khi ông H được giao đất khai hoang theo Quyết định 620/UB/QĐ.94 ngày 20/9/1994 nhưng ông H không trực tiếp khai hoang, canh tác mà giao toàn bộ đất lại cho người khác quản lý canh tác mà không làm thủ tục kê khai đăng ký để được cấp GCNQSDĐ, ông H không được xem là có QSDĐ theo Quyết định 620/UB/QĐ.94 ngày 20/9/1994 (Theo Điều 73 Luật Đất đai năm 1993). Người được ông H giao đất cải tạo, sau đó đi kê khai đăng ký và được nhà nước cấp GCNQSDĐ thì việc cấp giấy chỉ phù hợp với quy định pháp luật khi UBND huyện ban hành quyết định thu hồi Quyết định cấp đất khai hoang đã cấp cho ông H (Điều 21 Luật đất đai 1993).

Theo đơn xin cấp GCNQSDĐ thửa 285, 286, 313, 315, 339 và 361, tờ bản đồ số 11 cũ (hiện nay là các thửa đất số 314, 317, 336, 352, 372, 392 và 661, tờ bản đò số 11) của bà Phan Thị Đ và ông Hà Văn Đ1 thì phần nguồn gốc sử dụng ghi “Đất cấp 1989, quyết định số 730/UB/QĐ.94 ngày 21/10/1994”. Quyết định số 730/UB/QĐ.94 ngày 21/10/1994 là quyết định cấp đất khai hoang, đồng thời là quyết định giao đất theo Điều 1, Điều 20, Điều 24 Luật đất đai 1993. Việc bà Đ ông Đ1 căn cứ nguồn gốc sử dụng là Quyết định số 730/UB/QĐ.94 ngày 21/10/1994 thì việc cấp GCN QSDĐ năm 1996 cho bà Đ, ông Đ1 là trường hợp cấp GCNQSDĐ theo Quyết định giao đất và thuộc trường hợp nhà nước công nhận quyền sử dụng đất bằng hình thức cấp GCNQSDĐ lần đầu.

Việc cùng một phần đất nhưng có hai quyết định giao đất trong cùng một thời điểm cho hai đối tượng khác nhau (ông Phan Huy H và ông Hà Văn Đ1, chênh lệch nhau 1 tháng) do trước đây thực hiện chủ trương cấp đất khai hoang lấp kín vùng hoang hoá thuộc các xã phía bắc của huyện Thủ Thừa với diện tích và số lượng lớn, thiếu rà soát, kiểm tra thực tế đất.

Theo lời trình bày của các đương sự, năm 1987 UBND xã Long Thạnh tạm giao cho ông H 01 lô đất khoảng 10ha để khai hoang, sản xuất (không có văn bản thể hiện), nhưng Quyết định 620/UB/QĐ.94 ngày 20/9/1994 ghi giao cho ông H 70.000m2 (7ha) là do không tiến hành đo đạc thực tế. Mặt khác, theo đơn xin khai khẩn đất hoang của ông Phan Huy H được UBND xã Long Thạnh xác nhận ngày 10/6/1987 thì phần đất trên có diện tích 50.000m2 (5ha, chưa đo đạc thực tế) thực chất là giao cho ông H hết lô đất hiện đang tranh chấp.

Từ thời điểm ông H được cấp đất theo Quyết định 620/UB/QĐ.94 thì ông H có quyền sử dụng diện tích được giao và có nghĩa vụ khai hoang để đưa đất vào sản xuất, không phải đến khi kê khai đăng ký và được cấp GCNQSDĐ thì ông H mới có quyền sử dụng đất mà có kể từ thời điểm có Quyết định 620/UB/QĐ.94 ngày 20/9/1994 (kể cả ông H chưa kê khai đăng ký và được cấp GCNQSDĐ).

UBND huyện cấp GCNQSDĐ cho bà Phan Thị Đ và ông Hà Văn Đ1 khi bà Đ ông Đ1 đang trực tiếp canh tác trên đất là đúng đối tượng sử dụng nhưng trước đó chưa ban hành quyết định thu hồi Quyết định 620/UB/QĐ.94 ngày 20/9/1994 về việc cấp đất khai hoang cho ông Phan Huy H là không đúng trình tự thủ tục theo quy định tại Điều 21 Luật đất đai 1993.

3/ Tại bản tự khai ngày 27/6/2019, văn bản nêu ý kiến ngày 31/7/2019, ông Võ Hoàng L, đại diện theo uỷ quyền của ngân hàng TMCP C trình bày:

Bà Nguyễn Thị Ngọc H1 và ông Hà Thanh T1 có ký hợp đồng vay ngân hàng với hạn mức 3.700.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 1855.1409/HĐTD ngày 01/7/2009, số nợ vay còn lại tính đến ngày 27/6/2019 là 300.698.630 đồng, gồm nợ gốc 300.000.000 đồng và nợ lãi 698.630 đồng.

Để đảm bảo cho khoản vay này ông T1 bà H1, ông Đ1 bà Đ có giao kết với ngân hàng 04 hợp đồng thế chấp đảm bảo cho khoản vay gồm:

- Hợp đồng thế chấp số 1555.0312/HĐTC ngày 03/12/2015 và các văn bản sửa đổi bổ sung: Tài sản thế chấp là thửa 468, diện tích 6.663m2 và thửa 482, diện tích 5.602m2, tờ bản đồ số 11, tại ấp 2, xã Long Thạnh của bà Nguyễn Thị Ngọc H1 và ông Hà Thanh T1, mức dư nợ tối đa được đảm bảo 343.000.000 đồng.

- Hợp đồng thế chấp số 1855.0608/HĐTC ngày 22/8/2018 và các văn bản sửa đổi bổ sung: Tài sản thế chấp là thửa 120, diện tích 10.482m2 và thửa 147, diện tích 14.296m2, tờ bản đồ số 11, tại ấp 2, xã Long Thạnh của bà Nguyễn Thị Ngọc H1 và ông Hà Thanh T1, mức dư nợ tối đa được đảm bảo 850.000.000 đồng.

- Hợp đồng thế chấp số 1655.1204/HĐTC ngày 12/4/2016 và các văn bản sửa đổi bổ sung: Tài sản thế chấp là các thửa đất 315, 372, 392 tờ bản đồ số 11, diện tích 52.612m2 do bà Phan Thị Đ đứng tên GCNQSDĐ, mức dư nợ tối đa được đảm bảo 1.657.000.000 đồng.

- Hợp đồng thế chấp số 1655.0112/HĐTC ngày 01/12/2016 và các văn bản sửa đổi bổ sung: Tài sản thế chấp là các thửa 314, 317, 336, tờ bản đồ số 11, diện tích 27.003m2 do ông Hà Văn Đ1 đứng tên GCNQSDĐ, mức dư nợ tối đa được đảm bảo 850.000.000 đồng.

Các tài sản bảo đảm đều được cấp bởi các cơ quan có thẩm quyền, hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký giao dịch đảm bảo đúng quy định pháp luật. Các tài sản trên hiện nay đang cùng đảm bảo cho khoản nợ vay của bà Nguyễn Thị Ngọc H1 và ông Hà Thanh T1. Vì vậy, không đồng ý yêu cầu của nguyên đơn ông Phan Huy H về việc yêu cầu tuyên vô hiệu một phần hợp đồng thế chấp số 1655.0112/HĐTC ngày 01/12/2016 giữa Ngân hàng TMCP C với bà Phan Thị Đ và ông Hà Văn Đ1.

- Lời khai của những người làm chứng:

1/ Bà Phan Thị U trình bày: Bà là em út của ông H và bà Đ. Phần đất tranh chấp giữa ông H với bà Đ có nguồn gốc do ông H được UBND xã Long Thạnh cấp đất khai hoang vào năm 1986, việc cấp đất không đo đạc thực tế nhưng bà nghe nói lô đất được cấp khoảng 10ha. Bà không chứng kiến việc mua bán và giao tiền giữa ông H với bà Đ nhưng trong năm 1987 bà nghe ông H, bà Đ nói với cha mẹ nên biết ông H bán cho bà Đ 5ha đất có vị trí bắt đầu từ phần đất cặp Rạch Cái Sơn chạy thẳng xuống với giá 5 chỉ vàng.

Ngay sau đó bà Đ bán lại cho ông Đ2 ½ diện tích là 2,5ha với giá 2,5 chỉ vàng. Ông Đ2 làm được ba năm thì bán lại đất và công sức cải tạo cho bà Đ với giá 12 chỉ vàng.

Bà Đ, ông Đ1 là người khai hoang, sử dụng toàn bộ lô đất từ đó đến nay. Ông H không canh tác, cải tạo trên phần đất này thời gian nào. Năm 1996 ông Đ1, bà Đ đi kê khai đăng ký và được cấp GCNQSDĐ luôn phần ông H không bán nên nhiều lần ông H yêu cầu bà Đ trả thêm 150 triệu đồng hoặc trả lại phần đất dư ra nhưng bà Đ không đồng ý.

2/ Bà Phan Thị L1 trình bày: Bà L1 là chị thứ hai của ông H và bà Đ. Đầu tháng 10/2018 bà Lệ được nghe em ruột thứ 9 là Phan Thành Đ2 nói lại là ông H bán cho bà Đ 5ha với giá 5 chỉ vàng vào năm 1987, cùng thời điểm thì bà Đ bán lại cho ông Đ2 ½ diện tích với giá 2,5 chỉ vàng. Sau khi canh tác được mấy năm thì ông Đ2 bán lại phần đất này và công sức cải tạo cho bà Đ với giá 12 chỉ vàng. Nguồn gốc phần đất này bà L1 chỉ nghe nói là ông H được cấp 10ha nhưng vượt hạn điền nên bà Đ chỉ được cấp 8ha đất. Ngoài ra thì không biết thêm thông tin gì.

3/ Ông Phan Hoàng H3 trình bày: Ông H3 là anh ruột thứ ba của ông H và bà Đ. Ông Hồng được biết là khoảng năm 1985 ông H làm Phó chủ tịch UBND xã Long Thạnh và được cấp một lô đất (không biết diện tích bao nhiêu), phần đất đó là do nông trường giải thể được cắt ra làm 4 hay 5 lô đất cấp cho cán bộ xã gồm ông 6 Đồng, ông H, ông 10 Hải, ông 10 Ngay. Thời điểm này ông H3 là Phó Văn phòng huyện ủy Thủ Thừa.

Sau khi ông H được UBND giao đất thì ông H giao đất lại cho bà Đ cải tạo. Thời gian giao đất khi nào thì ông Hồng không nhớ, việc giao dịch giữa ông H với bà Đ cụ thể là mua bán hay cho mượn đất khai thác thì ông Hồng cũng không biết và không nghe ai nói lại. Vì thời điểm đó ông Hồng lập gia đình và về thị trấn Thủ Thừa sống nên không biết việc phát sinh trong nhà.

Trước đó cho đến năm 2016, 2017 ông không nghe nói ông H tranh chấp gì với bà Đ. Năm 2017 mới biết ông H tranh chấp với bà Đ tại UBND xã Long Thạnh.

4/ Ông Phan Văn Đ3 trình bày:

Ông Đ3 là em ruột của ông H và là anh ruột của bà Đ. Nguồn gốc phần đất tranh chấp là do ông H được xã cấp đất cho khai hoang vào năm 1987, 1988. Khi đó ông H nhà có điều kiện, phần đất được cấp là đất hoang, chưa thể canh tác được còn bà Đ thì nghèo, không có đất nên ông H thỏa thuận bán cho bà Đ lô đất này. Ông không chứng kiến trực tiếp việc ông H và bà Đ thỏa thuận bán đất, cũng không chứng kiến việc bà Đ giao vàng cho ông H. Nhưng năm 1988, ông còn sống chung cha mẹ và thấy bà Đ mượn tiền cha mẹ ông để trả tiền đất cho ông H, trong cuộc nói chuyện bà Đ nói rõ là ông H bán cho bà Đ toàn bộ lô đất mà ông H mới được cấp với giá 5 chỉ vàng. Đất chưa có giấy tờ nên chỉ thỏa thuận và giao vàng trực tiếp mà không lập thành văn bản. Hiện trạng phần đất này lúc đó chủ yếu là bàng, năng, lác và bưng thôi chứ chưa có khai vỡ gì cả. Trong năm 1988, bà Đ bán lại ½ diện tích cho em trai là Phan Thành Đ2. Ông Đ2 làm và cải tạo được khoảng 3 năm thì bán lại cho bà Đ với giá 12 chỉ vàng. Từ đó đến sau này vợ chồng bà Đ trực tiếp cải tạo và quản lý phần đất này và được cấp GCNQSDĐ.

Ông H đã bán đất cho bà Đ từ năm 1988 đến nay không có tranh chấp gì, phần đất này ông Đ3 chứng kiến chỉ có vợ chồng ông Đ1 bà Đ cải tạo, ông Đ2 cũng cải tạo trên đất khoảng 3 năm thì đã bán lại cho bà Đ với giá cao hơn để lấy lại công sức đóng góp. Ông H không làm trên đất cũng không thuê ai hay hùn hạp với ai làm trên đất cả.

5/ Ông Phan Thành Đ2 trình bày: Ông Đ2 là em trai ruột của ông H và bà Đ. Khoảng năm 1987 - 1988 ông Phan Huy H được UBND xã Long Thạnh giao một phần đất cặp ngọn Cái Sơn là vị trí phần đất hiện nay ông H đang tranh chấp với bà Đ. Sau khi được UBND xã giao đất thì ông H giao lại cho bà Đ luôn. Việc giao đất giữa ông H với bà Đ là do cho ở nhờ hay mua bán thì ông không trực tiếp chứng kiến. Nhưng năm 1988 ông nghe bà Đ nói là bà Đ mua, về số vàng và diện tích cụ thể bao nhiêu thì không đo đạc, chỉ biết là giao hết lô đất được cấp.

Năm 1988 bà Đ bán cho ông Đ2 ½ diện tích đất chiều ngang 50m giáp đường nước công cộng hiện nay với giá 2,5 chỉ vàng. Ông nhận đất từ năm 1989 đến năm 1992 thì ông cải tạo, canh tác được hơn ½ diện tích đất. Năm 1992 ông bán lại đất và thành quả lao động cho bà Đ với giá 12 chỉ vàng. Giao dịch giữa ông với bà Đ không lập thành văn bản. Sau khi bán đất thì ông đi Vũng Tàu làm ăn nên không về phần đất này nữa, những gì phát sinh sau đó ông đều không biết.

Trong thời gian làm trên đất từ 1989 đến 1992, ông thấy ông Đ1, bà Đ cũng làm phần còn lại của lô đất. Chỉ có ông và vợ chồng bà Đ canh tác và cải tạo phần đất trên chứ ông H không cải tạo đất hay thuê người làm gì trên đất cả.

6/ Ông Phan Thanh S trình bày:

Ông là em ruột của ông H và bà Đ. Khoảng năm 1987 - 1988 H được UBND xã Long Thạnh giao cho một lô đất cặp ngọn Cái Sơn là vị trí phần đất hiện nay ông H đang tranh chấp với bà Đ. Lô đất này thì chỉ có diện tích đất cặp bờ xáng là có thể làm lúa, diện tích đất còn lại là đất hoang không thể canh tác được. Sau khi được giao thì ông H bán toàn bộ lô đất được cấp này cho bà Đ với giá 5 chỉ vàng nhưng vì đất chưa có giấy tờ nên chỉ thỏa thuận miệng và giao vàng trực tiếp mà không lập thành văn bản.

Năm 1988 bà Đ nhận đất, năm 1989 bà Đ bán ½ diện tích cho ông Điệp, ông Đ2 làm đến năm 1992 thì bán lại đất và thành quả lao động cho bà Đ với giá 12 chỉ vàng. Vợ chồng bà Đ trực tiếp cải tạo và quản lý phần đất cho đến nay và đã được cấp GCNQSDĐ. Ông H không sử dụng, không cho người khác thuê, không hùn với người khác sử dụng đất.

7/ Bà Phan Kim Ng trình bày:

Bà Ngọc là con gái của ông H. Việc ông H được Ủy ban giao đất, việc bà Đ làm trên đất do được cho ở nhờ hay mua bán thì bà Ngọc không biết vì thời điểm đó còn quá nhỏ. Nhưng khi lớn lên thì bà được nghe nói: năm 1987 ông H được UBND xã Long Thạnh giao 01 lô đất khoảng 9ha đến 10ha và ông H cho bà Đ mượn làm, thỏa thuận khi nào ông H có giấy đỏ thì sẽ bán lại cho bà Đ ½ diện tích đất. Bà Đ là người sử dụng đất từ trước đến nay, ông H không sử dụng đất vì thời điểm được cấp đất thì cha mẹ bà đã có 4ha đất, ông H đi làm việc nhà nước, chỉ mình mẹ bà làm ruộng, vì mẹ bà làm không nổi nên mới cho bà Đ mượn làm. Cha bà có thuê ai làm hay không thì bà cũng không nghe nói nên không biết.

Trước năm 1999 thì bà nghe cha mẹ bà nói và được biết năm 1996, 1997 bà Đ làm thủ tục để được cấp GCNQSDĐ và đã được cấp giấy. Nhưng lý do tại sao cha mẹ bà không tranh chấp thì bà không biết. Bà không thấy vợ chồng bà Đ mang gì lên đóng hoa lợi hàng năm, ngoài ra cha mẹ bà có nhận gì từ bà Đ không thì bà không biết.

8/ Ông Phan Đoàn Anh T2 trình bày:

Ông T2 là con ruột của ông H. Việc ông H được Ủy ban giao đất, việc bà Đ làm trên đất do được cho ở nhờ hay mua bán thì ông T2 không biết vì thời điểm đó còn quá nhỏ. Nhưng khi lớn lên thì ông được nghe nói: năm 1987 ông H được UBND xã Long Thạnh giao 1 lô đất khoảng 9ha đến 10ha và ông H cho bà Đ mượn làm. Năm 1994 ông H được Ủy ban huyện cấp quyết định giao đất thì vợ chồng bà Đ lên nhà xin cho mượn luôn hết diện tích đất để làm, ông H đồng ý và có hứa với bà Đ là sau khi ông H được cấp giấy đỏ thì sẽ bán lại cho à Đặng ½ diện tích đất được cấp.

Trước năm 1999 ông T2 nghe nói năm 1996, 1997 ông Đ1 bà Đ làm thủ tục để được cấp GCNQSDĐ và đã được cấp giấy nhưng lý do tại sao cha mẹ ông không tranh chấp thì ông không biết. Cha mẹ ông không nhận gì từ bà Đ hay thu hoa lợi gì trên đất. Do còn nhỏ nên không biết cha mẹ ông có làm trên đất hay thuê ai làm trên đất không.

9/ Ông Huỳnh Văn N3 trình bày: Năm 1989, ông và ông Đ4 hùn với ông H cải tạo đất và canh tác lúa trên phần đất ông H được Ủy ban xã giao. Khi đó có khoảng 2ha cặp sông Cái Sơn do ông Đ1 và bà Đ đang canh tác, ông H nói là cho bà Đ mượn để sản xuất. Trên toàn bộ phần đất còn lại ông thấy đã có bờ bao và kênh mương có sẵn do nông trường để lại, đất sạch cỏ. Đất phía trong còn hình dáng líp trồng mì nhưng bỏ thời gian lâu nên đã bị lạng nhiều, ông Nết sử dụng máy xới đất là có thể canh tác lúa được. Vụ Đông xuân năm 1989 - 1990 bắt đầu làm, khi làm thì thỏa thuận ông H bỏ đất và tiền vốn, ông Nết và ông Đủ ai có tiền bao nhiêu thì bỏ vào bấy nhiêu khi thu hoạch xong thì trả lại. Ông Nết là người trực tiếp canh tác vì có máy, lợi nhuận thu được vẫn có lời nhưng không nhiều. Đến năm 1994 thì trả đất lại cho ông H còn sau đó thì không biết. Những người làm chứng cho bà Đ nói rằng từ năm 1988 đến nay không ai khác ngoài bà Đ ông Đ1 làm trên đất là không chính xác.

10/ Ông Đặng Văn Đ4 trình bày:

Năm 1989, ông với ông N3, ông H hùn nhau cải tạo đất và canh tác lúa trên phần đất ông H được Ủy ban xã giao. Ông N3 có máy, ông Đ4 góp công và ông H liên hệ vựa phân thuốc, sau khi trừ hết chi phí còn lại lợi nhuận thì chia đều cho 3 người. Thời điểm này ông Đ1 và bà Đ đang canh tác khoảng 2ha cặp sông Cái Sơn, phần còn lại để trống. Trên phần đất còn lại chưa ai làm nhưng có sẵn bờ bao, kênh mương do nông trường để lại, đất phía trong còn hình dáng líp trồng mì nhưng bỏ thời gian lâu nên đã bị lạng nhiều.

Từ năm 1989 đến 1994, ba người chỉ cải tạo được khoảng 3ha phía đuôi đất bên trong, ông Đ1 bà Đ cũng dỡ từ ngọn Cái Sơn xuống, phần ở giữa chưa cải tạo xong. Trong năm 1994, ông H được UBND huyện cấp Quyết định tạm giao đất, do ông Đủ được cấp đất ở khu vực khác nên không hùn làm chung nữa và ông H giao đất lại cho ông Đ1 bà Đ làm luôn từ năm 1994 đến nay.

11/ Bà Bùi Thị T4 trình bày: Bà T4 có phần đất phía sau phần đất đang tranh chấp. Bà T4 khai hoang trên đất của bà từ năm 1988 thì bà thấy ông Đ1, bà Đ đã làm trên phần đất tranh chấp rồi. Hỏi thăm thì bà Đ nói là do mua lại của ông H, còn việc giao vàng như thế nào thì bà không biết. Phần đất khi đó là đất hoang, biền trũng chủ yếu là bàng và cỏ. Giữa bà với vợ chồng ông Đ1 thường dằn công qua lại với nhau cải tạo đất. Có thời gian đầu thì có em ruột của bà Đ làm khoảng vài năm sau đó lại giao lại cho bà Đ làm. Toàn bộ đất trên là do vợ chồng ông Đ1 bà Đ khai dỡ chứ không có ai khác vào đào kênh hay dọn cỏ gì hết. Bà không thấy ông H làm trên đất.

12/ Ông Trần Văn T5 trình bày: Ông T5 có 2.700m2 cặp phần đất ông H đang tranh chấp nên biết rõ quá trình cải tạo và canh tác đất của ông Đ1 và bà Đ. Ông được biết phần đất này do Ủy ban xã Long Thạnh tạm giao cho ông H để khai hoang từ năm 1987 nhưng ông H không sử dụng mà do ông Đ1, bà Đ khai hoang và cải tạo từ năm 1988 đến nay. Ông không thấy ông H thuê người đào kênh hay cải tạo đất gì hết, cũng không thấy ai khác làm trên đất, chỉ có một thời gian có em của bà Đ làm vài năm nhưng sau đó không thấy làm nữa. Năm 1988 phần đất này là đất rừng, cỏ cao hơn người, chỉ có một phần từ mí rạch Cái Sơn chạy vào khoảng 80m thì Tập đoàn Tân Trụ có trồng mì một năm, phần còn lại là đất rừng hoang vu và ông Đ1 bà Đ cải tạo từ từ. Việc ông H với ông Đ1 bà Đ mua bán hay giao vàng thì ông T5 không biết.

13/ Ông Nguyễn Văn N4 trình bày: Ông không biết việc mua bán giữa ông H với bà Đ nhưng ông biết nguồn gốc phần đất tranh chấp do ông H được Ủy ban xã giao đất khai hoang, phần đất này khi đó bỏ hoang, chủ yếu là cỏ với bàng. Nhưng ông H không canh tác mà giao lại cho bà Đ, ông Đ1. Từ năm 1988 đến nay đều do ông Đ1, bà Đ khai hoang, quản lý và sử dụng, khi nhà nước thu hồi đất để làm lộ N2 thì ông Đ1 cũng là người nhận tiền đền bù, ông không thấy ông H cải tạo canh tác hay có ai thuê làm trên đất.

14/ Ông Huỳnh Văn Đ5 trình bày: Ông không biết giao dịch giữa ông H với bà Đ, chỉ nghe ông Đ1, bà Đ nói nguồn gốc phần đất tranh chấp là do mua lại của ông H. Ông làm trên phần đất của mình ở gần đất tranh chấp từ trước năm 1988 thì ông thấy phần đất tranh chấp này do ông Đ1 bà Đ khai hoang, quản lý, sử dụng từ năm 1988 đến nay, ngoài ra không có ai làm trên đất. Chỉ có một thời gian vài năm khi đang khai hoang thì có em của bà Đ làm nhưng sau đó giao lại cho bà Đ ông Đ1 làm luôn đến nay. Khi nhà nước thu hồi đất để làm lộ N2 thì vợ chồng ông Đ1 bà Đ trực tiếp nhận tiền và không ai tranh chấp gì.

15/ Bà Phạm Thị Mỹ P trình bày: Bà không biết nguồn gốc đất và giao dịch giữa ông H với bà Đ. Bà chỉ biết từ năm 1988 đến nay phần đất tranh chấp do vợ chồng ông Đ1, bà Đ khai hoang, sử dụng đến nay không có ai tranh chấp. Khi bà về khu vực này sống thì bà thấy phần đất này còn hoang, cỏ mọc cao không thể sản xuất được, vợ chồng ông Đ1 bà Đ cải tạo rất cực khổ mới được như hiện nay. Ngoài ra không có ai làm trên đất.

16/ Ông Nguyễn Văn B trình bày: Nguồn gốc phần đất tranh chấp giữa ông H với bà Đ là do ông H có đơn xin cấp đất khai hoang. Việc giao dịch giữa ông H với bà Đ thì ông không chứng kiến nhưng từ năm 1987 ông đã được nghe ông Đ1, bà Đ nói là mua lại của ông H 5 chỉ vàng. Từ năm 1988 đến nay chỉ gia đình ông Đ1, bà Đ khai hoang, canh tác trên toàn bộ phần đất tranh chấp. Ông H không canh tác hay thuê ai canh tác trên phần đất này. Cho đến năm 2016 ông H gởi đơn lên xã và xã mời chúng tôi đến xác minh nguồn gốc đất thì mới biết ông H tranh chấp còn trước đây không ai tranh chấp.

17/ Ông Trần Văn H3 trình bày: Ông không biết việc mua bán đất hay giao vàng giữa ông Đ1, bà Đ với ông H. Năm 1988 ông chỉ nghe ông Đ1, bà Đ nói là mua lại của ông H với giá 5 chỉ vàng. Từ năm 1988 đến nay chỉ có vợ chồng ông Đ1, bà Đ khai hoang, canh tác trên toàn bộ phần đất, ông H không sử dụng đất cũng không thuê ai làm trên đất. Phần đất của ông và bà Đ giáp ranh nhau nên mỗi bên bỏ ra 1,5m ngang để đào kênh thoát nước là rạch công cộng hiện nay.

Các đương sự thống nhất theo 02 Trích đo bản đồ địa chính do Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú lập cùng ngày 07/5/2017 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Thủ Thừa duyệt ngày 08/5/2018 và ngày 10/5/2018, Biên bản định giá ngày 28/9/2018; hiện trạng không thay đổi so với Biên bản thẩm định tại chỗ ngày 17/9/2018.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 39/2019/DS-ST ngày 09 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định:

1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Phan Huy H về việc yêu cầu ông Hà Văn Đ1 và bà Phan Thị Đ trả phần đất 2.592,3m2 thuộc thửa 422, tờ bản đồ số 11 tại xã L, huyện T, tỉnh Long An (Khu F, tại Mảnh trích đo bản đồ địa chính do Công ty TNHH Đo đạc Nhà đất Hưng Phú lập ngày 07/5/2018 và Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Thủ Thừa duyệt ngày 10/5/2018).

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phan Huy H về việc yêu cầu ông Hà Văn Đ1 và bà Phan Thị Đ trả quyền sử dụng đất, hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tuyên bố vô hiệu một phần hợp đồng thế chấp.

- Buộc ông Hà Văn Đ1 và bà Phan Thị Đ phải trả cho ông Phan Huy H diện tích đất 12.893,35m2 thuộc một phần thửa: 372, 392 tờ bản đồ số 11, tại xã L, huyện T, tỉnh Long An (thuộc Khu D2 diện tích 10.256m2, Khu E1 diện tích 2.637,35m2 tại Mảnh trích đo phân khu bản đồ địa chính ngày 09/9/2019 của Công ty TNHH Đo đạc Nhà đất Hưng Phú lập).

- Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 4047/1QSDĐ/0309LA ngày 20/12/1996 do UBND huyện T cấp cho bà Phan Thị Đ đối với diện tích đất 12.893,35m2 thuộc một phần thửa: 372, 392 tờ bản đồ số 11, tại xã L, huyện T, tỉnh Long An (thuộc Khu D2 diện tích 10.256m2, Khu E1 diện tích 2.637,35m2 tại Mảnh trích đo phân khu bản đồ địa chính ngày 09/9/2019 của Công ty TNHH Đo đạc Nhà đất Hưng Phú lập).

- Tuyên bố vô hiệu một phần Hợp đồng thế chấp số 1655.1204/HĐTC ngày 12/4/2016 giữa ông Hà Văn Đ1, bà Phan Thị Đ với Ngân hàng TMCP Cđối với diện tích đất 12.893,35m2 thuộc một phần thửa: 372, 392 tờ bản đồ số 11, tại xã L, huyện T, tỉnh Long An (thuộc Khu D2 diện tích 10.256m2, Khu E1 diện tích 2.637,35m2 tại Mảnh trích đo phân khu bản đồ địa chính ngày 09/9/2019 của Công ty TNHH Đo đạc Nhà đất Hưng Phú lập).

Các đương sự có quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục kê khai, điều chỉnh, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 12.893,35m2 thuộc một phần thửa: 372, 392 tờ bản đồ số 11, tại xã L, huyện T, tỉnh Long An (thuộc Khu D2 diện tích 10.256m2, Khu E1 diện tích 2.637,35m2 tại Mảnh trích đo phân khu bản đồ địa chính ngày 09/9/2019 của Công ty TNHH Đo đạc Nhà đất Hưng Phú lập).

3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phan Huy H về việc yêu cầu ông Hà Văn Đ1 và bà Phan Thị Đ trả diện tích đất 25.000m2 (37.893,35m2 – 12.893,35m2) theo Mảnh trích đo phân khu bản đồ địa chính ngày 22/8/2019 của Công ty TNHH Đo đạc Nhà đất Hưng Phú lập.

4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hà Văn Đ1 và bà Phan Thị Đ về việc yêu cầu hủy Quyết định số 620/QĐ-UB ngày 20/9/1994 của Ủy ban nhân dân huyện Thủ Thừa về việc cấp đất khai hoang cho ông Phan Huy H.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 19/9/2019, bị đơn là bà Phan Thị Đ, ông Hà Văn Đ1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ngày 23/9/2019, nguyên đơn là ông Phan Huy H kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông.

Tại phiên toà phúc thẩm:

Nguyên đơn là ông Phan Huy H vẫn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, buộc bị đơn giao trả cho ông diện tích đất 37.893,35m2 thuộc một phần các thửa: 661, 336, 352, 372, 392, tờ bản đồ số 11, tại xã L, huyện T, tỉnh Long An do phần đất trên có nguồn gốc là đất phục hóa do Nông trường huyện đội Tân Trụ sử dụng trồng mì, năm 1987 nguyên đơn diệt cỏ và đào kênh, vét mương sử dụng để sản xuất nông nghiệp. Ngày 20/9/1994, UBND huyện T ra Quyết định số 620/UB/QĐ.94 cấp cho ông H toàn bộ diện tích đất nêu trên theo diện đất cấp cho cán bộ xã tại thời điểm đó. Quyết định 620/UB/QĐ.94 đến nay vẫn còn hiệu lực. Năm 1995, ông H giao toàn bộ lô đất này cho ông Đ1, bà Đ sản xuất và thoả thuận đến khi ông H được cấp GCNQSDĐ sẽ bán cho vợ chồng bà Đ 1/2 diện tích đất như đã hứa trước đây chứ không có việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bị đơn. Từ sau khi giao đất cho ông Đ1, bà Đ, ông H đi các tỉnh miền Đông lập nghiệp nên không biết việc ông Đ1 bà Đ kê khai và được cấp GCNQSDĐ đối với diện tích đất này.

Bị đơn là ông Hà Văn Đ1 và bà Phan Thị Đ thống nhất vẫn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, hủy Quyết định số 620/UB/QĐ.94 ngày 20/9/1994 của UBND huyện Thủ Thừa, công nhận toàn bộ diện tích đất tranh chấp cho bị đơn.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là Luật sư Nguyễn Thái Th phát biểu ý kiến đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa bản án sơ thẩm, công nhận toàn bộ diện tích đất tranh chấp cho bà Đ ông Đ1 vì nguồn gốc đất tranh chấp do ông Phan Huy H được nhà nước giao năm 1987, sau đó chuyển nhượng lại cho bà Đ, ông Đ1 với giá 05 chỉ vàng, việc mua bán được những người làm chứng xác nhận. Năm 1988, bị đơn chuyển nhượng một phần đất trên cho ông Phan Thành Đ2, ông Đ2 canh tác đến năm 1992 thì chuyển nhượng lại phần đất này cho bị đơn. Ngày 21/10/1994, UBND huyện T ra Quyết định số 730/UB/QĐ.94 giao đất trên để canh tác. Năm 1995, bị đơn kê khai và được cấp GCNQSDĐ. Như vậy, sau khi nhận chuyển nhượng, bị đơn đã cải tạo, canh tác, sử dụng và xây nhà ở trên đất ổn định đến nay, không ai tranh chấp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Hà Thanh T1 và Hà Thanh T2 thống nhất yêu cầu kháng cáo của bị đơn và không đồng ý yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật;

Về nội dung: UBND huyện T xác định Quyết định số 620/UB/QĐ.94 giao đất cho nguyên đơn và Quyết định số 730/UB/QĐ.94 giao đất cho bị đơn cùng có hiệu lực. Như vậy, cùng 01 thửa đất lại tồn tại 02 Quyết định có hiệu lực nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ ai là người khai hoang, nạo vét mương và trực tiếp sử dụng đất. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của các đương sự, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Hà Thanh K, Hà Thanh N, chị Trần Thị Bích T, Nguyễn Thị Ngọc H1, Trương Thị Mỹ H2, Huỳnh Thị Đ, Hà Thị Như Y, Ngân hàng Thương mại Cổ phần C – Chi nhánh Long An, UBND huyện T (có ông Phan Văn T3 đại diện theo ủy quyền) đều xin vắng mặt; Công ty Trách nhiệm hữu hạn D vắng mặt.

Căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử phúc thẩm vắng mặt những đương sự này.

[2] Nguyên đơn là ông Phan Huy H kháng cáo cho rằng Quyết định giao đất số 620/UB/QĐ.94 ngày 20/9/1994 của UBND huyện T giao cho ông H lô đất 7ha để khai hoang hiện vẫn còn hiệu lực. Nguồn gốc phần đất tranh chấp do ông H khai hoang trồng mì vào năm 1987. Sau khi nhận đất, năm 1995 ông H giao toàn bộ lô đất này cho ông Đ1, bà Đ sử dụng sản xuất và thỏa thuận khi ông H được cấp GCNQSDĐ sẽ giao cho bị đơn ½ diện tích. Ông không có chuyển nhượng mua bán đất cho bị đơn nên yêu cầu sửa một phần bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông và không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn.

[3] Bị đơn đồng ý với lời trình bày của nguyên đơn về nguồn gốc đất là do ông H xin khai hoang vào năm 1987. Tuy nhiên, bị đơn kháng cáo cho rằng năm 1988 vợ chồng ông H chuyển nhượng cho vợ chồng bị đơn phần đất trên với giá 05 chỉ vàng, gia đình bị đơn đã khai hoang đất này nên ngày 21/10/1994 UBND huyện T đã có Quyết định số 730/UB/QĐ.94 giao phần đất trên cho bị đơn quản lý sử dụng. Năm 2003, bị đơn đã được UBND huyện T cấp GCNQSDĐ, gia đình bị đơn đang quản lý sử dụng phần đất trên. Do đó, ông Đ1, bà Đ yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo và không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[4] Tại văn bản số 959/UBND-NC ngày 31/5/2019, UBND huyện T trình bày:

- UBND xác nhận năm 1994 có Quyết định giao đất số 620/UB/QĐ.94 giao cho ông H khai hoang phần đất có diện tích 07 ha. Kể từ thời điểm được giao đất theo Quyết định 620/QĐ-UB.94, ông H có quyền sử dụng diện tích đất được giao và có nghĩa vụ khai hoang để đưa đất vào sản xuất, nếu ông H không thực hiện việc khai hoang đất thì sau 01 năm nhà nước sẽ thu hồi quyết định cấp đất trên để giao đất cho người khác. Trường hợp trước khi có Quyết định 620/QĐ- UB.94, nếu ông H đã bán, tặng cho phần đất cho người khác thì Quyết định này không phù hợp vì cấp không đúng đối tượng; nếu ông H cho thuê, mướn, mượn phần đất thì Quyết định 620/UB/QĐ.94 vẫn được công nhận.

- Trường hợp sau khi ông H được giao đất khai hoang theo Quyết định 620/UB/QĐ.94 ngày 20/9/1994 nhưng không trực tiếp khai hoang, canh tác mà giao toàn bộ đất lại cho người khác quản lý canh tác và không làm thủ tục kê khai đăng ký để được cấp GCNQSDĐ thì ông H không được xem là có quyền sử dụng đất theo Quyết định 620/UB/QĐ.94 ngày 20/9/1994. Người được ông H giao đất cải tạo, sau đó đi kê khai đăng ký và được nhà nước cấp GCNQSDĐ thì việc cấp giấy chỉ phù hợp với quy định pháp luật khi UBND huyện ban hành quyết định thu hồi Quyết định cấp đất khai hoang đã cấp cho ông H.

- UBND huyện T cũng xác nhận có Quyết định số 730/UB/QĐ.94 ngày 21/10/1994 giao phần đất trên cho ông Đ1, bà Đ là quyết định cấp đất khai hoang, nguồn gốc đất cấp năm 1989.

- Việc cùng một phần đất nhưng có hai quyết định giao đất trong cùng một thời điểm cho hai đối tượng khác nhau (ông Phan Huy H và ông Hà Văn Đ1, chênh lệch nhau 1 tháng) do trước đây thực hiện chủ trương cấp đất khai hoang với diện tích và số lượng lớn, thiếu rà soát, kiểm tra thực tế đất.

[5] Nguyên đơn khai nhận tại mục [2] sau khi có quyết định giao đất, năm 1995 ông H đã giao cho bị đơn quản lý sử dụng đất, và không đăng ký, kê khai quyền sử dụng đất. Như vậy, nếu căn cứ nội dung văn bản nêu tại mục [4], ông H không có quyền sử dụng đối với phần đất tranh chấp. Tuy nhiên, việc UBND huyện T ban hành Quyết định 730/UB/QĐ.94 giao đất cho ông Đ1, bà Đ khi chưa thu hồi Quyết định 620/QĐ-UB.94, và chưa hết thời hạn 01 năm kể từ ngày giao Quyết định 620/UB/QĐ.94 cho ông H là không đúng tinh thần của công văn nêu trên và quy định của Luật Đất đai năm 1993. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Quyết định 730/UB/QĐ.94 xác định bị đơn có quyền sử dụng đất đối với phần đất tranh chấp là chưa đủ cơ sở vững chắc. Hơn nữa, Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm cũng không nhận định về hiệu lực của Quyết định số 730/UB/QĐ.94, trong khi tại Công văn 7226/UBND-NC ngày 16/12/2020 của UBND huyện T phúc đáp cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh lại xác định cả 02 Quyết định 620/UB/QĐ.94 và 730/UB/QĐ.94 trên đều có hiệu lực pháp luật. Như vậy, cần làm rõ tại sao cùng một diện tích đất lại tồn tại hai quyết định giao đất nêu trên, và vì sao Ủy ban lại cấp GCNQSDĐ cho bị đơn trong khi Quyết định 620/QĐ-UB.94 vẫn còn hiệu lực.

[6] Mặt khác, nguyên đơn ông Phan Huy H cho rằng có quá trình khai hoang, canh tác sử dụng đất từ năm 1987 đến năm 1994. Bị đơn xác định nguyên đơn không canh tác mà đã chuyển nhượng cho bị đơn từ năm 1988. Những người làm chứng là các ông Huỳnh Văn N3 và ông Đặng Văn Đ4 trình bày năm 1989, các ông có hùn với ông H cải tạo đất và canh tác lúa trên phần đất ông H được Ủy ban xã giao. Tuy nhiên, bà Phan Kim Ng (con ông H) lại cho rằng bà Đ là người sử dụng đất từ trước đến nay, ông H không sử dụng đất, chỉ mình mẹ của bà làm ruộng, do làm không nổi nên nên mới cho bà Đ mượn canh tác. Những người làm chứng khác là bà Phan Thị U, Bùi Thị Tuyết, Phạm Thị Mỹ P, ông Phan Văn Đ3, Phan Thành Đ2, Phan Thanh S, Nguyễn Văn N4, Huỳnh Văn Đ5, Nguyễn Văn B và Trần Văn H3 đều thống nhất khai nhận phần đất tranh chấp do bị đơn canh tác từ năm 1988 đến nay. Như vậy, lời khai của các đương sự có mâu thuẫn với nhau và mâu thuẫn với lời khai của những người làm chứng về đối tượng khai hoang, canh tác đất từ năm 1988 đến 1994 nhưng chưa được Tòa án cấp sơ thẩm làm rõ ông H có khai hoang, canh tác sử dụng đất hay không, nếu có trong khoảng thời gian nào, đến khi nào gia đình ông Đ1, bà Đ sử dụng đất này và sử dụng với tư cách gì là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.

[7] Ngoài ra, bị đơn khai nhận nguyên đơn chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất tranh chấp với giá 05 chỉ vàng 24K, việc chuyển nhượng có các anh chị em đều biết. Nguyên đơn cho rằng không chuyển nhượng đất mà chỉ cho bị đơn mượn đất canh tác. Những người làm chứng bà Phan Thị U, ông Phan Thành Đ2, ông Phan Văn Đ3, ông Phan Thanh S, bà Phan Thị L1 là anh chị em ruột của ông H và bà Đ đều khai từ năm 1987 ông H đã bán đất cho bà Đ 05ha với giá 05 chỉ vàng; sau khi bà Đ nhận chuyển nhượng từ ông H thì bán lại cho ông Đ2 ½ diện tích với giá 2,5 chỉ vàng, ông Đ2 cũng đã canh tác trên đất được 3 năm thì bán đất và thành quả lao động lại cho bà Đ với giá 12 chỉ vàng và bà Đ canh tác đến nay. Tuy nhiên, những người làm chứng này đều không chứng kiến việc chuyển nhượng mà chỉ nghe người khác nói lại. Lẽ ra, để xác định có việc chuyển nhượng hay không, Tòa án cấp sơ thẩm phải thu thập chứng cứ làm rõ những người nói lại này là ai và có trực tiếp chứng kiến việc giao nhận vàng hay không, nếu có là vào thời điểm cụ thể nào nhưng chưa thực hiện mà lại nhận định ông H chỉ chuyển nhượng cho bị đơn phần diện tích 05 ha, phần còn lại 25.786,7 m2 cho bị đơn mượn canh tác là chưa đủ căn cứ và mâu thuẫn với lời trình bày của các đương sự và người làm chứng. Hơn nữa, tại mục [15] bản án sơ thẩm xác định ông H bán toàn bộ diện đất cho bị đơn, nhưng mục [16] lại xác định phần diện tích bán chỉ có 05 ha là mâu thuẫn.

[8] Hồ sơ vụ án thể hiện, ông Đ1, bà Đ sử dụng phần đất đang tranh chấp thế chấp tại Ngân hàng TMCP C (Ngân hàng) để bảo đảm cho khoản vay của anh Hà Thanh T1, chị Nguyễn Thị Ngọc H1. Như phân tích tại mục [5,6,7] và bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập chứng cứ đầy đủ làm cơ sở giải quyết vụ án nên việc tuyên vô hiệu một phần Hợp đồng thế chấp số 1655.1204/HĐTC ngày 12/4/2016 giữa ông Hà Văn Đ1, bà Phan Thị Đ với Ngân hàng đối với diện tích đất 12.893,35m2 thuộc một phần thửa: 372, 392 tờ bản đồ số 11, tại xã L, huyện T, tỉnh Long An là chưa đủ căn cứ. Ngoài ra, tại văn bản số 576/TB-NHCTLA ngày 17/12/2020, Ngân hàng TMCP C có ý kiến xác định hiện nay anh Hà Thanh T1, chị Nguyễn Thị Ngọc H1 đã tất toán toàn bộ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng. Do đó, cần thu thập chứng cứ để làm rõ vấn đề này khi giải quyết lại vụ án.

[9] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ để giải quyết vụ án mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định pháp luật như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

Bản án dân sự sơ thẩm bị hủy do việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ nên Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét nội dung vụ án.

[10] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do hủy bản án sơ thẩm nên người kháng cáo không phải chịu theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 39/2019/DS-ST ngày 09/9/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định pháp luật.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Phan Huy H, ông Hà Văn Đ1, và bà Phan Thị Đ không phải chịu. Hoàn trả cho ông Phan Huy H, bà Phan Thị Đ và ông Hà Văn Đ1 mỗi đương sự 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo các biên lai thu số 0000586 ngày 23/9/2019, 0000582 và 0000583 cùng ngày 20/9/2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Long An.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

509
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 220/2021/DS-PT ngày 26/04/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu vô hiệu hợp đồng thế chấp và yêu cầu hủy quyết định hành chính 

Số hiệu:220/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;