Bản án 217/2020/HS-ST ngày 16/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 217/2020/HS-ST NGÀY 16/06/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 6 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 90/2020/HSST ngày 03 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 154/2020/QĐXXST-HS ngày 28/4/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 122/2020/HSST-QĐ ngày 19/5/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 136/2020/HSST-QĐ ngày 02/6/2020 đối với bị cáo:

Trần Văn N (tên gọi khác: Nam Kiểng), sinh năm 1986 tại tỉnh Cà Mau; thường trú: Ấp H xã Đ, huyện D tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Trần Phú L, sinh năm 1957 và con bà Nguyễn Tuyết H, sinh năm 1963; bị cáo có 03 chị em ruột, bị cáo là thứ 2; tiền sự, tiền án: Không có. Bị cáo bị bắt giam ngày 11/10/2019, có mặt.

Người chứng kiến:

1. Anh Nguyễn Tấn T, sinh năm 1990, vắng mặt.

2. Chị Phạm Ngọc H, sinh năm 1993, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Trần Văn N sử dụng ma túy, N mua ma túy từ người khác về sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện nhằm thu lợi.

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 11/10/2019, bị cáo N ở phòng trọ số 2, dãy nhà trọ địa chỉ số 41/13 khu phố Tây A, phường Đông Hòa, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương thì có Nguyễn Tấn T, Phạm Ngọc H, Hồ Thế V đến chơi. Sau đó H đi ra ngoài mua nước uống, T ngồi sửa điện thoại. N, V đi ra ngoài phòng trọ. N hỏi V “mua ma túy để mời bạn sử dụng”, V bán 01 gói ma túy cho N với giá 600.000 đồng, V nhận tiền rồi về. N bỏ gói ma túy vào trong nón kết màu đen về lại phòng trọ, thời điểm này H cũng về lại phòng của N, N lấy một phần ma túy đã mua cho vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy rồi cùng với T và H sử dụng. Đến 21 giờ 30 phút cùng ngày, lực lượng Công an phường Đông Hòa kiểm tra hành chính phòng ở trọ của N, ghi nhận trong phòng có N, T và H và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy trên sàn nhà, thời điểm này N lấy trong nón kết màu đen 01 gói ma túy mua từ V giao nộp và bị lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú.

Vật chứng thu giữ: 01 túi nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Điện thoại di động nhãn hiệu Symphony, sim số 0948.074.948 của bị cáo N; 01 nón kết màu đen.

Kết luận giám định số 763/MT-PC09 ngày 17/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng thu giữ từ bị cáo N gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,4795 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra xác định bị cáo N bán ma túy cho T và H, như sau :

+ Ngày 05/10/2019, N bán 100.000 đồng ma túy cho T và H tại phòng ở trọ của N.

+ Ngày 10/10/2019, N bán 200.000 đồng ma túy cho T và H tại phòng ở trọ của N.

Số tiền N thu lợi từ việc bán ma túy là 100.000 đồng.

Đối với việc bị cáo N khai nhận mua 600.000 đồng ma túy từ Hồ Thế V vào ngày 11/10/2019, V không thừa nhận việc bán ma túy cho N, việc mua bán này không có ai chứng kiến. Công an Thành phố không xử lý hình sự với V.

Đối với Nguyễn Tấn T, Phạm Ngọc H sử dụng trái phép chất ma túy.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Dĩ An đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với T, H với số tiền 750.000 đồng Cáo trạng số 127/CT – VKS ngày 02 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Văn N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn N từ 9 năm đến 10 năm tù. Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định, bộ dụng cụ sử dụng ma túy, sim điện thoại, nón kết của bị cáo N. Buộc bị cáo N nộp lại 100.000 đồng và tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước điện thoại di động của bị cáo N.

Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo N nói lời sau cùng: Xin xem xét giảm nhẹ mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo N: Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú ngày 11/10/2019, lời khai người làm chứng, biên bản lấy lời khai, quá trình tranh tụng tại phiên tòa thể hiện bị cáo Trần Văn N sử dụng ma túy, ngày 11/10/2019 khi kiểm tra hành chính phòng ở trọ của bị cáo N thu giữ ma túy có khối lượng 0,4795 gam loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính. Ngoài ra xác định bị cáo N còn bán ma túy cho Nguyễn Tấn T, Phạm Ngọc H vào ngày 5/10/2019 với số tiền 100.000 đồng và ngày 10/10/2019 với số tiền 200.000 đồng. Như vậy, hành vi trên của bị cáo N đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm b, c (phạm tội 02 lần trở lên, đối với 02 người trở lên) khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 127/CT-VKS ngày 02/3/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo N không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đầu thú. Tình tiết trên được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo N có nhân thân tốt thể hiện việc không có tiền án, tiền sự.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo N phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 15 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy còn lại sau giám định, bộ dụng cụ sử dụng ma túy, nón kết, sim điện thoại di động của bị cáo N do sử dụng, liên quan đến việc phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy. Đối với điện thoại di động nhãn hiệu Symphony còn giá trị sử dụng cần tịch thu phát mãi sung vào ngân sách Nhà nước. Đối với số tiền 100.000 đồng N thu lợi do bán ma túy, cần buộc bị cáo nộp lại sung vào ngân sách nhà nước. [4] Đối với Nguyễn Tấn T, Phạm Ngọc H sử dụng ma túy, Công an Thành phố Dĩ An ra quyết định xử phạt hành chính mỗi người 750.000 đồng là phù hợp.

[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cũng như việc xử lý vật chứng phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận. Riêng mức hình phạt bị cáo N có phần nghiêm khắc. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần mức hình phạt đối với bị cáo N so với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[6] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo N phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 251; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn N 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày  11/10/2019.

2.Các biện pháp tư pháp

2.1 Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư được niêm phong bên ngoài ghi số 763/PC09, trong bì thư chứa 0,3623 gam ma túy Methamphetamine; sim số điện thoại 0948.074.948; 01 nón kết vải màu đen; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm 01 bình nhựa, 01 ống hút, 01 nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy)

+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Symphony.

+ Buộc bị cáo Trần Văn N nộp 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) sung vào ngân sách nhà nước.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/3/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Bị cáo Trần Văn N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 217/2020/HS-ST ngày 16/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:217/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;