Bản án 216/2018/HSST ngày 16/08/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 216/2018/HSST NGÀY 16/08/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 157/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 215/2018/HSST-QĐ ngày 02 tháng 8 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thanh T (tên gọi khác: TA), sinh năm 1989 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 36/13, khu phố T, phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 6/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Thanh D, sinh năm 1968 và bà Phạm Thị Kim L, sinh năm 1968; vợ tên Trần Lê Vinh S, sinh năm 1993 (đã ly hôn); có 01 con, sinh năm 2013; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 20/7/2017 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Đ áp dụng biện pháp giáo dục tại phường thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bắt tạm giam ngày 13/12/2017, có mặt.

2. Huỳnh Tấn Hùng Bảo K (tên gọi khác: U), sinh năm 1983 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 271B, khu phố B, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: Lớp 02/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1940 và bà Võ Thanh T, sinh năm 1942; vợ tên Trần Thị H, sinh năm 1983; có 03 con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 28/02/2017 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường B áp dụng biện pháp giáo dục tại phường thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 01/11/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã D áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 16 tháng; bị bắt tạm giam ngày 13/12/2017, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Anh Nguyễn Sơn T, sinh năm 1992; địa chỉ: Khu phố N, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

2/ Chị Lưu Thị T; địa chỉ: Nhà nghỉ N, khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

3/ Anh Điền Văn B, sinh năm 1973; địa chỉ: Ấp 1, xã N, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng:

1 Anh Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1994; địa chỉ: Số 2/171 khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

2. Anh Lê Văn D, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh T và Huỳnh Tấn Hùng Bảo K là bạn quen biết và đều là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 11/12/2017, K nhờ T mua giúp 2.000.000 đồng ma túy. Nguyễn Thanh T sử dụng xe mô tô biển số 60F7-1299 đến khu vực ký túc xá Trường Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh gặp T1 (chưa rõ nhân thân) mua 01 gói nilon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng, mang về phòng số 6 nhà nghỉ N nơi K thuê để ở, thuộc khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương giao lại cho K. Tại đây, cả hai sử dụng chung và K lấy 01 ít cho T để sử dụng. T phân nhỏ số ma túy K cho thành 03 gói nilon hàn kín để bán lại cho người nghiện ma túy khác. Hình thức bán ma túy, T sử dụng điện thoại di động Nokia màu trắng bạc, sim số 0987310510, khi người nghiện ma túy có nhu cầu mua thì gọi vào số điện thoại trên và hẹn địa điểm giao ma túy. Khoảng 09 giờ 40 phút ngày 13/12/2017, Nguyễn Sơn T gọi điện thoại hỏi mua 01 gói ma túy, giá 500.000 đồng nhưng chưa có tiền nên xin nợ lại và T hẹn T tại khu vực trước nghĩa trang Triều Châu ở khu phố T, phường T. Khi cả hai vừa giao ma túy xong, ngồi lên xe máy điều khiển đi thì bị đội tuần tra Công an phường T bắt quả tang, thu giữ 01 gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng trong tay của T và thu giữ 02 gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng trong khẩu trang y tế của T đang đeo.

Quá trình điều tra xác định được: Ngoài lần bán 01 gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng vào ngày 13/12/2017 cho Nguyễn Sơn T; Nguyễn Thanh T còn bán cho T 01 gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng vào ngày 10/12/2017, giá 200.000 đồng tại nhà của T ở khu phố T, phường T.

Ngày 13/12/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D khám xét nơi ở của Nguyễn Thanh T thu giữ 02 cây kéo bằng inox, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; khám xét phòng số 6 Nhà nghỉ N nơi Huỳnh Tấn Hùng Bảo K thuê, thu giữ 01 gói nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, 02 cây kéo bằng inox và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

Vật chứng: 01 gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Sơn T; 02 gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng, 02 cây kéo bằng inox, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 01 điện thoại di động Nokia màu trắng bạc sim số 0987310510 và 01 xe mô tô Dream biển số 60F7- 1299 thu giữ của Nguyễn Thanh T; 01 gói nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, 02 cây kéo bằng inox và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá thu giữ của Huỳnh Tấn Hùng Bảo K.

Căn cứ Kết luận giám định số 568/MT-PC54 ngày 15/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương: Tinh thể màu trắng trong 01 gói nilon hàn kín thu giữ của Nguyễn Sơn T là ma túy, có trọng lượng 0,2878 gam, loại Methamphetamine (mẫu vật sau giám định 0,1337gam); tinh thể màu trắng trong 02 gói nilon hàn kín thu giữ của Nguyễn Thanh T là ma túy có trọng lượng0,2757 gam, loại Methamphetamine (mẫu vật sau giám định 0,1597gam); tinh thể màu trắng trong 01 gói nilon miệng kéo dính thu giữ của Huỳnh Tấn Hùng Bảo K là ma túy có trọng lượng 5,6447 gam, loại Methamphetamine (mẫu vật sau giám định 5,2184gam).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bình Dương.

Tại Cáo trạng số 174/CT-VKS ngày 07 tháng 6 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 và khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; truy tố bị cáo Huỳnh Tấn Hùng Bảo K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm b, khoản 2 Điều 194; điểm p, khoản 1 Điều 46; Điều 50 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp chung hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành là 09 năm 06 tháng đến 10 năm 06 tháng tù. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn Hùng Bảo K từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Xử lý vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bì thư được niêm phong có chứa Methamphetamine, trọng lượng sau giám định là 0,1337gam, 0,1597gam và 5,2184gam;

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 04 cây kéo bằng inox và sim số 0987310510;

- Đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước điện thoại di động Nokia màu trắng bạc số IMEI 357318084946651.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội; trong phần nói lời sau cùng, bị cáo Nguyễn Thanh T xin được Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 11/12/2017, Huỳnh Tấn Hùng Bảo K nhờ Nguyễn Thanh T mua giúp 2.000.000 đồng ma túy. Nguyễn Thanh T sử dụng xe mô tô biển số 60F7-1299 đến khu vực ký túc xá Trường Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh gặp T1 (chưa rõ nhân thân) mua 01 gói nilon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng, mang về phòng số 6 nhà nghỉ N nơi K thuê để ở, thuộc khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương giao lại cho K. Tại đây, cả hai sử dụng chung và K lấy 01 ít cho T để sử dụng. T phân nhỏ số ma túy K cho thành 03 gói nilon hàn kín để bán lại cho người nghiện ma túy khác. Ngày 10/12/2017, T bán cho Nguyễn Sơn T 01 gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng, giá 200.000 đồng. Khoảng 09 giờ 40 phút ngày 13/12/2017, T tiếp tục bán cho T 01 gói ma túy tại khu vực trước nghĩa trang T ở khu phố T, phường T thì bị bắt quả tang. 

Theo quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

......

b) Phạm tội nhiều lần;

Hành vi của bị cáo Huỳnh Tấn Hùng Bảo K nhờ T mua ma túy để tàng trữ nhằm mục đích sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh T đã 02 lần bán ma túy loại Methamphetamine cho Nguyễn Sơn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung “phạm tội nhiều lần” theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Cáo trạng số 174/CT-VKS ngày 07 tháng 6 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo Nguyễn Thanh T thực hiện là rất nghiêm trọng, tội phạm do bị cáo Huỳnh Tấn Hùng Bảo K thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc mua bán, sử dụng trái phép ma túy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người sử dụng, ma túy là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy có đồng phạm, nhưng là đồng phạm giản đơn: Bị cáo Huỳnh Tấn Hùng Bảo K là người đề xuất, nhờ Tâm đi mua ma túy; T là đồng phạm giúp sức được K trả công bằng cách cho ma túy để sử dụng.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009, Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[7] Về nhân thân: Các bị cáo đều là người nghiện ma túy; bị cáo Nguyễn Thanh T có 01 tiền sự, ngày 20/7/2017 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Đ áp dụng biện pháp giáo dục tại phường thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo Huỳnh Tấn Hùng Bảo K có 02 tiền sự: Ngày 28/02/2017 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường B áp dụng biện pháp giáo dục tại phường thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và ngày 01/11/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã D áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 16 tháng.

[8] Xử lý vật chứng:

- Xét 01 bì thư được niêm phong có chứa Methamphetamine, trọng lượng sau giám định là 0,1337gam; 0,1597gam và 5,2184gam là vật cấm lưu thông cần tịch thu tiêu hủy;

- Xét sim số 0987310510, 04 cây kéo bằng inox và 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá là vật chứng liên quan đến vụ án và không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Xét 01 điện thoại di động Nokia màu trắng bạc số IMEI 357318084946651 thu giữ của bị cáo Nguyễn Thanh T, bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.

- Xét xe mô tô Dream biển số 60F7-1299 (không có bửng, không kính chiếu hậu, không có chắn sên) thu giữ của bị cáo là do anh Điền Văn B đứng tên chủ sở hữu. Anh B xác nhận đã bán lại cho người đàn ông tên T (không rõ nhân thân) nhưng chưa làm thủ tục sang tên và không còn quyền lợi gì; bị cáo khai mượn của bạn tên V (không rõ nhân thân). Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã đăng báo truy tìm chủ sở hữu nhưng không có người đến nhận nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

[9] Đối với T1 là người bán ma túy cho T, hiện không xác định được nhân thân, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Đối với chị Lưu Thị T là quản lý Nhà nghỉ N không biết bị cáo Huỳnh Tấn Hùng Bảo K tàng trữ trái phép chất ma túy trong phòng số 6 nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An không xử lý. Đối với Nguyễn Sơn T mua ma túy của Tâm nhưng không đủ định lượng nên không đề nghị truy tố.

[10] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Xét các bị cáo đều là người nghiện ma túy, công việc không ổn định, thu nhập thấp nên Hội đồng xét xử quyết định không phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[11] Về mức hình phạt, xử lý vật chứng như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[12] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T (tên gọi khác: TA) phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Tấn Hùng Bảo K (tên gọi khác: U) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm b, khoản 2 Điều 194; điểm p, khoản 1 Điều 46; Điều 53; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp chung hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành là 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/12/2017.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p, khoản 1 Điều 46; Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn Hùng Bảo K 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/12/2017.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư được niêm phong có chứa Methamphetamine, trọng lượng sau giám định là 0,1337gam; 0,1597gam và 5,2184gam; sim số 0987310510, 04 cây kéo bằng inox và 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước điện thoại di động Nokia màu trắng bạc số IMEI 357318084946651 và xe mô tô Dream biển số 60F7-1299 (không có bửng, không kính chiếu hậu, không có chắn sên).

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/5/2018).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Nguyễn Thanh T và Huỳnh Tấn Hùng Bảo K, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 216/2018/HSST ngày 16/08/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:216/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;