Bản án 216/2017/DS-PT ngày 29/12/2017 về tranh chấp hợp đồng dân sự góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 216/2017/DS-PT NGÀY 29/12/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ GÓP HỤI 

Ngày 29 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 169/2017/TLPT-DS ngày 07 tháng 11 năm 2017 về tranh chấp hợp đồng dân sự về góp hụi.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2017/DS-ST ngày 19/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện A bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 280/2017/QĐ-PT ngày 04/12/2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Hoài H, sinh năm 1977 (có mặt) Địa chỉ: Ấp X, xã V, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn:

1. Ông Huỳnh Văn T (A), sinh năm 1936 (vắng mặt)

2. Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1951 (có mặt) Cùng địa chỉ: ấp X, xã V, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà NLQ1, sinh năm 1964 (có đơn xin vắng mặt)

2. Ông NLQ2, sinh năm 1962 (có đơn xin vắng mặt)

3. Anh NLQ3, sinh năm 1980 (có đơn xin vắng mặt)

Cùng địa chỉ: ấp X, xã V, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Ngưi đại diện hợp pháp của ông Trường là: Chị Trần Thị Hoài H, sinh năm 1977

Địa chỉ: Ấp X, xã V, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Theo Văn bản uỷ quyền ngày 09 tháng 5 năm 2017).

- Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Trần Thị Hoài H trình bày: Năm 2015 bà Nguyễn Thị C có tham gia góp hụi do chị làm chủ, cụ thể:

Hụi 1.000.000 đồng, áp ngày 25/9/2015 âm lịch, có 28 phần, một tháng xổ 02 lần vào ngày 10, 25 hàng tháng, hụi có lãi và có hoa hồng (tiền cò mỗi phần 600.000 đồng), bà C tham gia 02 phần, góp hụi sống đến lần thứ 03 thì bỏ thăm260.000 đồng nên lĩnh phần hụi thứ nhất được 19.400.000 đồng (đã trừ cò). Sau đó lần thứ 04 bà C tiếp tục bỏ thăm 220.000 đồng nên lĩnh phần hụi còn lại được 20.340.000 đồng. Sau khi lĩnh hụi, bà C có đóng hụi chết đến ngày 25/3/2016 thì không đóng nữa nên còn thiếu lại (17 lần x 1.000.000đ/lần) x 02 phần = 34.000.000 đồng. Phần hụi này đã mãn ngày 15/11/2016 âm lịch.

Hụi 500.000 đồng, áp ngày 30/7/2015 âm lịch, có 51 phần, một tháng xổ 02 lần vào ngày 15, 30 hàng tháng, hụi có lãi và có hoa hồng (tiền cò mỗi phần300.000 đồng), bà C tham gia 01 phần, góp hụi sống được 08 lần với số tiền 2.310.000 đồng đến lần thứ 09 bỏ thăm 210.000 đồng nên lĩnh được 15.880.000 đồng (đã trừ cò). Sau khi lĩnh hụi, bà C có đóng hụi chết được 09 lần, còn nợ lại 33 lần x 500.000đ/lần = 16.500.000 đồng. Phần hụi này đến ngày 30/8/2017 âm lịch mới mãn.

Giữa chị và bà C có thỏa thuận đổi hụi với nhau, cụ thể:

Chị tham gia 03 phần hụi (tham gia giùm bà Trần Thị K1 01 phần, còn 02 phần của chị) 1.000.000 đồng của bà NLQ1 và ông NLQ2 làm chủ, mở ngày10/12/2014 âm lịch, có 24 phần, mỗi tháng mở 01 lần vào ngày 10 hàng tháng (gom 20 hàng tháng), hụi có lãi và có hoa hồng (tiền cò 500.000 đồng). Hụi mãn ngày 20/11/2016 âm lịch.

Bà C tham gia 02 phần hụi 1.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị K2 làm chủ, mở ngày 05/01/2015 âm lịch, có 33 phần, mỗi tháng mở 01 lần vào ngày 05 hàng tháng (gom ngày 15 hàng tháng), bà C tham gia 02 phần, hụi có lãi và có hoa hồng (tiền cò 600.000 đồng). Bà C đóng hụi sống được 03 lần đến lần thứ 04 thì đổi hụi nên từ đó trở về sau do chị trực tiếp góp hụi sống, lĩnh hụi và đóng hụi chết đầy đủ cho chị K2 và hiện giữa chị với chị K2 không có tranh chấp gì.

Do hụi của chị K2 xổ cao nên bà C không lĩnh được, do đó chị và bà C cùng chị K2 cùng thống nhất thỏa thuận: Chị nhận 02 phần hụi của bà C tham gia từ chị K2, còn bà C nhận 02 phần hụi của chị tham gia từ bà NLQ1, ông NLQ2; chị và bà C có thỏa thuận với bà NLQ1, ông NLQ2 nhưng bà NLQ1, ông NLQ2 không đồng ý.

Sau khi đổi hụi đến lần thứ 05 bà C nhờ chị bỏ thăm nên lĩnh phần hụi thứ nhất, phần hụi còn lại đóng đến khoảng lần thứ 07, thứ 08 thì bà C trực tiếp bỏ thăm nên lĩnh phần hụi còn lại. Toàn bộ những lần giao tiền lĩnh hụi thì bà NLQ1, ông NLQ2 đều giao cho chị nhận, sau đó chị giao lại cho bà C nhận. Tất cả những lần góp hụi sống và đóng hụi chết cho bà NLQ1, ông NLQ2 thì do bà C đưa tiền cho chị và chị đóng cho bà NLQ1, ông NLQ2 chứ bà C không đóng trực tiếp cho bà NLQ1, ông NLQ2 . Sau khi lĩnh hết hai phần hụi thì bà C có gởi tiền đóng hụi chết nhưng từ ngày 20/4/2016 âm lịch đến nay không đóng hụi chết nữa, do đó chị đã xuất tiền ra đóng hụi chết thay cho bà C xong nên bà C còn nợ lại chị tổng cộng (08 lần x 1.000.000đ) x 02 phần = 16.000.000 đồng. Hụi mãn ngày 20-11-2016 âmlịch.

Riêng phần hụi chị tham gia giùm bà Trần Thị K1 thì bà K1 đã bỏ thăm ngày 10/4/2016 âm lịch nên đã lĩnh hụi và phần hụi này đã đóng hụi chết cho bà NLQ1, ông NLQ2 xong.

Ngoài ra, bà C còn vay tiền của chị, cụ thể:

Ngày 07/01/2016 bà C mượn chị vay của bà Huỳnh Thị Út M 5.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 500.000 đồng/tháng, không thỏa thuận thời hạn trả gốc. Sau khi vay, bà C có đưa tiền cho bà trả lãi cho bà M 02 tháng được 1.000.000 đồng.

Ngày 20/02/2016 bà C mượn chị vay của bà Huỳnh Thị Út M 5.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 500.000 đồng/tháng, không thỏa thuận thời hạn trả gốc. Sau khi vay bà C không trả lãi được đồng nào.

Ngày 06/7/2016 bà C mượn chị vay của bà Lê Thị Đ 8.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 800.000 đồng/tháng, không thỏa thuận thời hạn trả gốc. Sau khi vay, bà C không trả lãi được đồng nào.03 khoản vay này chị đóng lãi từ khi bà C không trả lãi đến nay và hiện nay chị vẫn chưa trả tiền gốc cho bà Huỳnh Thị Út M, bà Lê Thị Đ được đồng nào.

Ngoài ra, do bà C không đóng hụi chết và trả lãi nên chị có trực tiếp vay của bà Huỳnh Thị Út M 03 lần với số tiền là 6.000.000 đồng để đóng hụi chết và trả lãi.

Nay chị yêu cầu ông Huỳnh Văn T, bà Nguyễn Thị C phải trả cho chị số tiền hụi còn thiếu là 60.000.000 đồng, trong đó: Tiền hụi của dây 1.000.000 đồng áp ngày 25-9-2015 âm lịch là 24.000.000 đồng; tiền hụi của dây 500.000 đồng áp ngày 30-7-2015 âm lịch là 15.500.000 đồng; tiền hụi của dây hụi 1.000.000 đồng áp ngày 10-12-2014 âm lịch là 13.000.000 đồng và số tiền hụi hai bên thống nhất cộng theo tờ giấy ghi ngày 20-5 là 7.500.000 đồng.

Bị đơn bà Nguyễn Thị C và ông Huỳnh Văn T thống nhất trình bày: Bà thừa nhận lời trình bày của chị H về việc bà có tham gia chơi hai dây hụi nêu trên là đúng. Tuy nhiên, đối với dây hụi 1.000.000 đồng thì tiền cò mỗi phần là 500.000 đồng, bà không nhớ góp hụi sống được bao nhiêu lần thì lĩnh hết hai phần hụi và hiện còn nợ lại 10 lần hụi chết x 1.000.000 đồng x 02 phần = 20.000.000 đồng. Đối với dây hụi 500.000 đồng, bà không nhớ góp hụi sống được bao nhiêu lần thì lĩnh hụi và còn nợ lại 29 lần hụi chết (tính đến ngày mãn hụi) x 500.000 đồng =14.500.000 đồng.

Đối với phần hụi đổi với chị H, sau khi lĩnh hết hai phần hụi đổi với chị H thì bà đã gửi tiền cho chị H đóng đầy đủ cho bà NLQ1 và ông NLQ2 nên hiện nay không còn thiếu lại đồng nào.

Ngày 20/6/2016 giữa bà và chị H cộng sổ lại với nhau thì bà còn nợ chị H tiền hụi chết tổng cộng là 9.370.000 đồng. Do bà không biết chữ nên chị H ghi ngày 20/5/2016. Việc góp hụi sống, hụi chết cũng như những lần chị H lĩnh tiền hụi 02 phần từ bà NLQ1 và ông NLQ2 không có giấy tờ gì, chỉ duy nhất có lần đóng hụi chết ngày 20/6/2016 thì bà mượn của bà Võ Thị Kim L ở ấp X, xã V3.000.000 đồng để trả tiền hụi cho chị H (bà L trả trực tiếp cho chị H), còn2.000.000 đồng chị H trực tiếp đến nhà bà gom hụi.

Sau khi lĩnh các phần hụi thì việc đóng hụi chết của bà thực hiện hai lần trong tháng, cụ thể: Ngày 20 hàng tháng đóng 02 phần hụi của bà NLQ1 và ông NLQ2 là 2.000.000 đồng; còn ngày 25 hàng tháng đóng hụi chết bà tham gia trựctiếp từ chị H là 5.000.000 đồng. Còn việc mượn chị H vay tiền như chị H trình bày nêu trên là hoàn toàn không có.

Nay bà đồng ý trả cho chị H số tiền hụi còn thiếu của dây hụi 1.000.000 đồng áp ngày 25/9/2015 âm lịch là 24.000.000 đồng và dây hụi 500.000 đồng áp ngày 30/7/2015 âm lịch là 15.500.000 đồng và số tiền hụi hai bên thống nhất cộng theo tờ giấy ghi ngày 20/5 là 7.500.000 đồng. Tổng cộng bị đơn đồng ý trả47.000.000 đồng, nhưng sau khi hai bên cộng sổ đã trực tiếp trả cho chị H nhận2.000.000 đồng tại nhà chị H, mượn của bà Võ Thị Kim L trả 3.000.000 đồng nên chỉ còn nợ lại và đồng ý trả 42.000.000 đồng; không đồng ý trả cho chị H số tiền của dây hụi đổi do bà NLQ1 và ông NLQ2 làm chủ.

Bà NLQ1 trình bày: Bà và chồng bà là ông NLQ2 có làm chủ dây hụi mở ngày 10/12/2014 âm lịch, có 24 phần, mỗi tháng mở 01 lần vào ngày 10 hàng tháng (gom 20 hàng tháng), chị H tham gia 03 phần (H tham gia 02 phần, còn 01 phần tham gia dùm Trần Thị K), hụi có lãi và có hoa hồng (tiền cò 500.000 đồng). Chị H góp hụi sống được khoảng 03 lần thì có nói với bà là đổi hụi với bà C nhưng bà không đồng ý. Do đó, chị H tiếp tục góp hụi sống đến lần thứ 05 thì bỏ thăm nên lĩnh phần hụi thứ nhất, sau đó chị H tiếp tục góp hụi sống, đóng hụi chết đến lần thứ 07, thứ 08 thì bà C trực tiếp đi bỏ thăm nên lĩnh phần hụi thứ hai này. Việc giao số tiền hụi lĩnh được thì bà giao trực tiếp cho chị H nhận. Từ khi lĩnh hụi đến khi hụi mãn thì chị H là người trực tiếp đóng hụi chết cho bà đến nay thì hai bên đã thanh toán xong nên không còn thiếu đồng nào. Còn việc đổi hụi giữa chị H với bà C như thế nào thì bà hoàn toàn không biết, chỉ duy nhất lần mở hụi thứ 07, thứ 08 thì bà C trực tiếp đi bỏ thăm. Do đó, trong vụ án này bà xác định bà và chồng bà là ông NLQ2 không liên quan và cũng không có yêu cầu gì nên yêu cầu Tòa án không triệu tập ông bà nữa.

Riêng phần hụi chị H tham gia giùm bà Trần Thị K thì bà NLQ1 đã bỏ thăm ngày 10/4/2016 âm lịch nên đã lĩnh hụi và phần hụi này đã đóng hụi chết cho vợ chồng bà xong.

Tại bản án sơ thẩm số 40/2017/DS-ST ngày 19/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện A đã quyết định:

Buộc ông Huỳnh Văn T, bà Nguyễn Thị C phải trả cho chị Trần Thị Hoài H 56.000.000 đồng tiền hụi.

Bác một phần yêu cầu của chị Trần Thị Hoài H buộc ông Huỳnh Văn T, bà Nguyễn Thị C phải trả là 4 . 000 . 000 đồng , trong tổng số tiền hụi 60.000.000 đồng bà yêu cầu.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, lãi suất chậm trả trong thi hành án và báo quyền kháng cáo theo hạn luật định.

Ngày 04/10/2017 bị đơn bà Nguyễn Thị C có đơn kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết là: Bà chỉ đồng ý trả cho chị H số tiền 40.000.000 đồng, còn 16.000.000 đồng của dây hụi 1.000.000 đồng mở ngày 10/12/2014 âm lịch do bà NLQ1 làm chủ thì bà đã trả đủ nên không đồng ý trả nữa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng trong vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm nghị án tại phiên tòa phúc thẩm đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về hướng giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà C, số tiền bà C còn phải trả cho chị H là 44.000.000 đồng, đề nghị miễn án phí cho bà C và ông T do là người cao tuổi.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nH định:

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh NLQ3, bà NLQ1, ông NLQ2 có đơn xin giải quyết vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm; bị đơn ông Huỳnh Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử phúc thẩm vắng mặt họ.

[2] Nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất xác định: Số tiền hụi chết mà ông T, bà C còn nợ chị H tổng cộng là 47.000.000 đồng, trong đó tiền nợ của dây hụi1.000.000 đồng mở ngày 25/9/2015 âm lịch là 24.000.000 đồng; dây hụi 500.000 đồng mở ngày 30/7/2015 âm lịch là 15.500.000 đồng và số tiền hụi ghi trên tờ giấy cộng ngày 20/5 là 7.500.000 đồng. Ông T, bà C cho rằng, sau khi hai bên cộng nợ thì bà C đã trả trực tiếp cho bà H 2.000.000 đồng và mượn bà Võ Kim L trả3.000.000 đồng, nên nay ông bà còn nợ lại chị H 42.000.000 đồng. Tuy nhiên, lời trình bày của bà C, ông T chỉ được chị H thừa nhận số tiền 3.000.000 đồng, nhưng số tiền này theo chị H là tiền đóng hụi chết cho dây hụi đổi do bà NLQ1 làm chủ, còn đối với số tiền 2.000.000 đồng thì chị H không thừa nhận và bà C cũng không có chứng cứ gì để chứng minh. Do đó, cấp sơ thẩm xác định bà C, ông T nợ tiền hụi chết do chị H làm chủ hụi là 47.000.000 đồng là có căn cứ. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, chị H lại thừa nhận số tiền 3.000.000 đồng (do bà Ltrực tiếp đưa cho chị H) là bà C trả cho khoản nợ hụi do chị làm chủ nên bà C, ôngT phải trả cho chị H số tiền nợ hụi còn lại là 44.000.000 đồng.

[3] Bà C kháng cáo cho rằng, sau khi lĩnh hai phần hụi thì bà đã đưa tiền cho chị H đóng hụi chết đầy đủ cho bà NLQ1, ông NLQ2 nên bà không còn thiếu nợ dây hụi này nữa. Còn lời khai của chị H cho rằng sau khi bà C lĩnh hết hai phần hụi thì có tiếp tục đóng hụi chết đến ngày 20/3/2016 âm lịch, sau đó thì không đóng nữa nên chị H đã đóng hụi chết thay cho bà C và đã thực hiện xong nghĩa vụ đối với chủ hụi là bà NLQ1, ông NLQ2 . Xét thấy, lời khai của chị H và bà C đều xác định rằng: Việc đổi hụi giữa hai bên không được sự đồng ý của chủ hụi là bà NLQ1 và ông NLQ2 nên các lần lĩnh tiền hụi đều do bà NLQ1, ông NLQ2 đưa cho chị H và chị H giao số tiền này lại cho bà C; khi đóng hụi thì bà C giao tiền hụi cho chị H để chị H đóng lại cho chủ hụi bà NLQ1, ông NLQ2 . Khi bà C giao tiền cho chị H để đóng hụi chết hai bên không làm biên nhận hay giấy tờ gì và cũng không có ai chứng kiến. Theo quy định tại khoản 1 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp”. Theo đó chị H phải cung cấp được chứng cứ để chứng minh số tiền hụi 13.000.000 đồng bà C chưa trả cho chị; tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án chị H không có chứng cứ nào để chứng minh cho yêu cầu này, trong khi đó chủ hụi là ông NLQ2, bà NLQ1 đã xác định nghĩa vụ hai phần hụi của chị H (tức là hai phần hụi đổi cho bà C) đã thanh toán xong. Nên chị H khởi kiện yêu cầu bà C phải trả 13.000.000 đồng tiền hụi đổi do bà NLQ1, ông NLQ2 làm chủ là không có căn cứ. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà C, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu của chị H là yêu cầu bà C, ông T trả số tiền hụi 13.000.000 đồng.

Từ những cơ sở nhận định nêu trên, trong thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử thống nhất ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa, chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị C, sửa bản án sơ thẩm theo hướng nhận định nêu trên.

[4] Về án phí: Do bản án sơ thẩm bị sửa nên sửa lại phần án phí cho phù hợp quy định của pháp luật.

Án phí sơ thẩm: Chị Trần Thị Hoài H phải chịu án phí sơ thẩm giá ngạch đối với yêu cầu không được chấp nhận là: 13.000.000 đồng x 5% = 650.000 đồng.

Bà Nguyễn Thị C và ông Huỳnh Văn T phải chịu án phí sơ thẩm giá ngạch là 44.000.000 đồng x 5% = 2.200.000 đồng. Tuy nhiên, căn cứ vào đơn xin miễn án phí của bị đơn bà C, ông T, xét thấy bà C, ông T là người cao tuổi, thuộc trường hợp được miễn nộp án phí sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 vàĐiều 48 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Do đó, ông T và bà C được miễn nộp tiền án phí sơ thẩm.

Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bà C được hoàn trả lại tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 và Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 103, Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; các Điều 7, 8, 25, 30 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của C phủ về họ, hụi, biêu, phường; Điều 12, khoản 4 Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày  30/12/2016 của Ủy  ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị C.

Sửa bản án sơ thẩm số 40/2017/DS-ST ngày 19/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Hoài H. Buộc bà Nguyễn Thị C và ông Huỳnh Văn T phải trả cho chị Trần Thị Hoài H số tiền hụi còn thiếu là 44.000.000 đồng (Bốn mươi bốn triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của chị Trần Thị Hoài H cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bà Nguyễn Thị C và ông Huỳnh Văn T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Hoài H về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị C và ông Huỳnh Văn T phải trả cho chị số tiền hụi 13.000.000 đồng.

3. Về án phí:

- Án phí sơ thẩm:

Chị Trần Thị Hoài H phải chịu án phí đối với yêu cầu không được chấp nhận là 650.000 đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 2.285.750 đồng theo biên lai số 0000163 ngày 16 tháng 01 năm 2017 của Chi cụcThi hành án dân sự huyện A; chị H được nhận lại số tiền 1.635.750 đồng (Một triệu sáu trăm ba mươi lăm nghìn bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Bà Nguyễn Thị C và ông Huỳnh Văn T được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm.

- Án phí phúc thẩm:

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị C 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số 0000496 ngày 16/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

493
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 216/2017/DS-PT ngày 29/12/2017 về tranh chấp hợp đồng dân sự góp hụi

Số hiệu:216/2017/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;