Bản án 214/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 214/2017/HSST NGÀY 28/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28/9/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 216/2017/HSST ngày 18 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tráng Thị M, sinh năm 1962 tại huyện B, tỉnh Sơn La.

Nơi đăng ký HKTT: Bản P, xã L, huyện M, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Dân tộc: Mông; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Tôn giáo: Không; Đảng phái, đoàn thể: Không. Con ông: Tráng A S, sinh năm 1932 và bà Sồng Thị P (Đã chết); có chồng là Hạng A T, sinh năm 1953; có 09 con, con lớn nhất sinh năm 1982, con nhỏ nhất sinh năm 2003.

Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Mộc Châu từ ngày 23/6/2017 đến nay, có mặt tại phiên toà.

NHẬN THẤY

Bị cáo Tráng Thị M bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 13 giờ 00 phút, ngày 23/6/2017 tổ công tác Công an huyện Mộc Châu phối hợp với tổ công tác Đồn biên phòng cửa khẩu L làm nhiệm vụ tại Tiểu khu 19/5, xã C, huyện M phát hiện, lập biên bản về hành vi vi phạm hành chính đối với Hoàng Văn T, sinh năm 1979 và Lò Văn M, sinh năm 1980, cùng trú tại: Tiểu khu 19/5, xã C, huyện M về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ là 01 bật lửa ga màu xanh; 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 01 mảnh ni lon màu trắng. Quá trình làm việc T và M khai nhận T và M vừa sử dụng hết 04 viên ma túy tổng hợp (Hồng phiến). Nguồn gốc của 04 viên ma túy tổng hợp do T và M mua của Tráng Thị M, trú tại: Bản P, xã L, huyện M, tỉnh Sơn La với giá 220.000 đồng. Căn cứ vào hành vi vi phạm và vật chứng thu giữ, tổ công tác đã lập biên bản vi phạm hành chính, lấy lời khai đối với Hoàng Văn T và Lò Văn M để điều tra, làm rõ.

Ngày 23/6/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành test thử nhanh ma túy đối với Hoàng Văn T và Lò Văn M. Kết quả Hoàng Văn T và Lò Văn M đều dương tính với MET và THC (Có chất ma túy)

Mở rộng điều tra, ngày 23/6/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La đã tiến hành bắt khẩn cấp đối với Tráng Thị M về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Kết quả khám xét thu giữ của Tráng Thị M số tiền 220.000 đồng.

Quá trình điều tra, Tráng Thị M, Hoàng Văn T và Lò Văn M khai nhận: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 22/6/2017, Mỷ đi bộ ra đường dân sinh của bản P, xã L, huyện M thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, Mỷ đã hỏi và mua được của người đó 04 viên ma túy tổng hợp (Hồng phiến) được gói bằng mảnh túi ni lon màu trắng với giá 150.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Mỷ cất giấu vào trong túi vải đeo trước bụng rồi đi về nhà. Đến khoảng 12 giờ ngày 23/6/2017 khi Mỷ đang ở nhà một mình thì có T và M đi bộ đến nhà hỏi mua ma túy, Mỷ đã bán cho T 04 viên ma túy tổng hợp (Hồng phiến) được gói bằng mảnh túi ni lon màu trắng với giá 220.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T và M đi bộ về đến tiểu khu 19/5, xã C, huyện M thì vào bụi cây ven đường, bỏ 04 viên ma túy tổng hợp vừa mua được của Mỷ ra sử dụng, khi T và M vừa sử dụng xong thì bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính, thu giữ vật chứng. Đến 18 giờ 10 phút ngày 23/6/2017 thì Mỷ bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La bắt khẩn cấp và thu giữ số tiền 220.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 179/CT-VKS ngày 18/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã truy tố bị cáo với nội dung: Truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mộc Châu để xét xử đối với bị can Tráng Thị M về tội: Mua bán trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tráng Thị M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt đối với bị cáo như sau:

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Tráng Thị M từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 41 BLHS; khoản 1, 2 Điều 76 BLTTHS.  Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 220.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi TEST thử của Hoàng Văn T; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi TEST thử của Lò Văn M; 01 chiếc bật lửa ga màu xanh, đã qua sử dụng cũ; 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 01 mảnh ni lon màu trắng.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và lời khai của bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, bị cáo Tráng Thị M vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ căn cứ kết luận: Ngày 23/6/2017, Tráng Thị M đã có hành vi bán trái phép 04 viên ma túy tổng hợp (Hồng phiến) cho Hoàng Văn T với giá 220.000 đồng. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: Mua bán trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự có mức hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù.

Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử đã đánh giá các tình tiết, nội dung vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Tráng Thị M là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Hành vi của bị cáo đã làm gia tăng các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng, bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn lao sâu vào con đường phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo nhằm mục đích vụ lợi. Do đó, đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra và cần cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét, bị cáo phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó cần xem xét áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo phần nào.

Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Quá trình điều tra xác định bị cáo không có tài sản gì có giá trị, do đó cần xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Hoàng Văn T và Lò Văn M là hành vi vi phạm hành chính, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, do đó không đề cập đến biện pháp xử lý.

Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo (Như bị cáo khai), quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này, do đó không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Về vật chứng của vụ án:

Đối với số tiền 220.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có, do đó cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi TEST thử của Hoàng Văn T; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi TEST thử của Lò Văn M; 01 chiếc bật lửa ga màu xanh, đã qua sử dụng cũ; 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 01 mảnh ni lon màu trắng, xét không có giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu huỷ.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn lại trên 45 ngày, do đó Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Tráng Thị M phạm tội: Mua bán trái phép chất ma tuý.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Tráng Thị M 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 23/6/2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 BLHS; khoản 1, 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự về vật chứng của vụ án:

Tịch thu của bị cáo số tiền 220.000 đồng (Hai trăm hai mươi nghìn đồng chẵn) để sung quỹ Nhà nước.

Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi TEST thử của Hoàng Văn T; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi TEST thử của Lò Văn M; 01 chiếc bật lửa ga màu xanh, đã qua sử dụng cũ; 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 01 mảnh ni lon màu trắng.

3. Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 BLTTHS; khoản 1 Điều 21; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

402
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 214/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:214/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;