Bản án 212/2019/HNGĐ-ST ngày 04/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 212/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 713/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 259/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 144/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thảo N, sinh năm 1994. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp M, xã K, huyện Đ, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1990. (có mặt) Địa chỉ: Ấp M, xã K, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 11 tháng 02 năm 2019 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Trần Thị Thảo N trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn H chung sống với nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian dài đến đầu năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm, anh H không quan tâm vợ con, dù đã cố gắng khắc phục nhưng không thành. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên chị và anh H đã ly thân từ năm 2015 đến nay. Nay, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên chị xin ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị và anh H có 01 con chung tên Nguyễn Trần Thu T, sinh ngày 17/11/2014. Khi ly hôn, chị N yêu cầu được nuôi con chung, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn H có lời trình bày tại phiên tòa: Anh không đồng ý ly hôn với chị N và muốn được đoàn tụ. Về con chung: Trong trường hợp ly hôn, anh đồng ý để chị N tiếp tục nuôi 01 con chung tên Nguyễn Trần Thu T, sinh ngày 17/11/2014, anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng. Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, chị N có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng anh H vẫn vắng mặt nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Trần Thị Thảo N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn H, anh H hiện thường trú tại ấp M, xã K, huyện Đ, tỉnh Long An (được Công an xã K xác nhận) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị Thảo N xin vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh H chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K vào năm 2013 nên hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Thấy rằng, trong quá trình chung sống, chị N cho rằng do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, nên chị và anh H phát sinh mâu thuẫn, dù đã cố gắng khắc phục nhưng không thành, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn nên chị và anh H ly thân từ năm 2015 đến nay. Mâu thuẫn giữa anh chị cũng không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Đối với anh Nguyễn Văn H, trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của chị N nhưng anh H không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của chị N. Tại phiên tòa, anh H có lời trình bày không đồng ý ly hôn nhưng anh không đưa ra được biện pháp nào vợ chồng đoàn tụ, trong khi thời gian ly thân đã lâu và chị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, kiên quyết ly hôn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng đã không thể hàn gắn, đời sống chung vợ chồng của anh chị không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của chị N đối với anh H là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, chị N và anh H có 01 con chung tên Nguyễn Trần Thu T, sinh ngày 17/11/2014. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung. Từ khi chị N và anh H xa nhau đến nay, chị N là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, vẫn đảm bảo sự phát triển bình thường của con chung. Mặt khác, con chung là gái cần sự chăm sóc, gần gũi với mẹ hơn. Anh H cũng có lời trình bày đồng ý để chị N tiếp tục nuôi con chung. Xét thấy, chị N và anh H có lời trình bày thống nhất về việc nuôi con chung nên Hội đồng xét xử ghi nhận, tiếp tục giao con chung cho chị N nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng: Chị N yêu cầu anh H cấp dưỡng đối với con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng. Xét thấy, mức cấp dương tối thiểu theo quy định pháp luật là ½ tháng lương cơ sở, tức là 745.000 đồng; mức cấp dưỡng chị N yêu cầu so với mức cấp dưỡng tối thiểu theo quy định không cao hơn nhiều, anh H có lời trình bày đồng ý với mức cấp dưỡng do chị N yêu cầu nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Về tài sản chung: Chị N trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Chị N trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Chị N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, 273, 483, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, 56, 81, 82, 83, 84, 110, 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Thảo N đối với anh Nguyễn Văn H về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Thảo N được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

- Về con chung: Chị Trần Thị Thảo N được quyền tiếp tục nuôi 01 con chung tên Nguyễn Trần Thu T, sinh ngày 17/11/2014. Anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng (Một triệu đồng); thời gian cấp dưỡng từ tháng 9/2019 đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí: Chị Trần Thị Thảo N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0003065 ngày 09/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An sang án phí để thi hành.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; nguyên đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 212/2019/HNGĐ-ST ngày 04/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:212/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;