Bản án 21/2022/HS-ST về tội trốn thuế

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 21/2022/HS-ST NGÀY 18/07/2022 VỀ TỘI TRỐN THUẾ

Ngày 18 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 19/2022/TLST- HS ngày 16 tháng 6 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2022/QĐXXST - HS ngày 4 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Khánh H, sinh năm 1970, tại tỉnh Hòa Bình; nơi ĐKHKTT: Thị trấn H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; nơi cư trú: Xóm Y, xã L, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Giám đốc Công ty TNHH Khánh Hoàn 70; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Khánh H (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; vợ Trần Thị T có 02 con; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại bản án hình sự số 01/2009/HSST, ngày 15/01/2009 Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt 5.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, ngày 20/4/2009 đã chấp hành xong. Bị cáo bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 18/01/2022 tại xã Lạc Lương, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình (có mặt).

2. Trần Văn T, sinh năm 1981, tại tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Thôn Đ, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Quý (đã chết) và bà Đinh Thị Đ; vợ Trương Huyền T; có 02 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 18/01/2022 tại xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình (có mặt).

- Bị hại: Chi Cục thuế khu vực Nho Quan - Gia Viễn - Đại diện theo pháp luật ông Vũ Hồng V - Chức vụ: Chi Cục trưởng Chi cục Thuế khu vực Nho Quan - Gia Viễn. Địa chỉ: Phố B, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Đại diện ủy quyền ông Trần Xuân P - Phó chi cục Thuế khu vực Nho Quan - Gia Viễn - giấy ủy quyền số 1088/GUQ-CCTKV ngày 01/7/2022 (có mặt).

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Đức H, chị Nguyễn Thị H, ông Phạm Xuân V và bà Nguyễn Thị H (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty TNHH Khánh Hoàn 70 (viết tắt là Công ty Khánh Hoàn), mã số thuế: 2700902078; thành lập ngày 28/02/2020; địa chỉ trụ sở: thôn P, xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Giám đốc công ty là Hoàng Khánh H, sinh năm 1970, trú tại xóm Y, xã L, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; Ngành nghề kinh doanh là chế biến dăm gỗ keo; Công ty đăng ký kê khai thuế theo phương pháp khấu trừ, hồ sơ kê khai thuế theo quý tại Chi cục thuế khu vực Nho Quan - Gia Viễn, sử dụng hóa đơn GTGT là hóa đơn điện tử có kết nối dữ liệu với Cơ quan thuế do Tập đoàn Công nghiệp viễn thông Quân đội (Viettel) chi nhánh huyện N, tỉnh Ninh Bình cung cấp. Ngày 12/3/2020, Công ty Khánh Hoàn đã gửi thông báo phát hành hóa đơn mẫu số 01GTKT0/001, ký hiệu KH20E, số lượng 1.000 số, từ số 0000001 đến số 0001000. Công ty Khánh Hoàn mở và sử dụng tài khoản số: 48310000703239 tại Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) chi nhánh N - Phòng giao dịch N và tài khoản số: 3008201004540 mở tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Y, tỉnh Hòa Bình để thanh toán hàng hóa mua vào, bán ra. Quá trình hoạt động kinh doanh H thuê Trần Văn T, sinh năm 1981, trú tại thôn Đ, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình làm kế toán cho Công ty với nhiệm vụ chính là hạch toán các nghiệp vụ kế toán phát sinh và kê khai báo cáo thuế.

Trong năm 2020, Công ty Khánh H mua của các hộ dân nhỏ, lẻ ở khu vực huyện Y và huyện L, tỉnh H tổng cộng là 8.240,370 tấn gỗ keo nhưng không có hoá đơn chứng từ sau đó mang về xưởng chế biến thành dăm gỗ để bán cho Công ty TNHH Nam Phương Ninh Bình (gọi tắt là Công ty Nam Phương), trụ sở tại phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình do Nguyễn Đức H quản lý điều hành. Từ tháng 3 năm 2020 đến tháng 10 năm 2020, Công ty Khánh Hoàn đã xuất bán cho Công ty Nam Phương 07 Hóa đơn GTGT (gồm hóa đơn số 0000001 ngày 31/3/2020; số 0000002 ngày 30/4/2020; số 0000003 ngày 31/5/2020; số 0000004 ngày 30/6/2020; số 0000005 ngày 31/7/2020; số 0000006 ngày 31/8/2020; số 0000007 ngày 31/10/2020) với tổng khối lượng hàng hóa thực tế xuất kèm theo là 4.630,21 tấn dăm gỗ keo, giá trị hàng hóa trước thuế là 10.306.815.700 đồng; thuế GTGT là 1.030.681.570 đồng, tổng giá trị thanh toán là 11.337.497.270 đồng. Sau khi Công ty Khánh Hoàn giao hàng cho Công ty Nam Phương tại cảng cầu Đế, thuộc xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình và hoàn tất các thủ tục mua bán hàng hoá, Công ty Nam Phương đã chuyển khoản thanh toán đủ số tiền 11.337.497.270 đồng vào tài khoản số 3008201004540 của Công ty Khánh Hoàn mở tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh huyện Y, tỉnh Hòa Bình.

Theo quy định về thuế, sau khi xuất bán hàng hóa thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng thì Công ty Khánh Hoàn phải kê khai và nộp tiền thuế GTGT tương ứng với 10% giá trị hàng trước thuế ghi trên hoá đơn đã xuất cho Công ty Nam Phương là 1.030.681.570 đồng. Tuy nhiên, để giảm trừ một phần số tiền thuế phải nộp nhằm chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước, Hoàng Khánh H - giám đốc công ty đã bàn bạc, thống nhất với kế toán Trần Văn T đối với số tiền thuế GTGT là 1.030.681.570 đồng do Công ty Nam Phương thanh toán cho Công ty Khánh H, H giữ lại 30% tương ứng với số tiền 309.204.471 đồng. Số tiền 70% còn lại tương ứng với số tiền 721.477.099 đồng H giao lại cho T để T mua khống hóa đơn GTGT đầu vào và tự cân đối kê khai thuế nhằm làm giảm số tiền thuế giá trị gia tăng Công ty Khánh Hoàn phải nộp. T đồng ý và đã nhận của H tổng số tiền là 721.477.099 đồng (nhận thành 07 lần tiền tương ứng với 07 hóa đơn GTGT xuất bán cho Công ty Nam Phương).

Để thực hiện hành vi trốn thuế, từ tháng 3/2020 đến tháng 6/2020 Trần Văn T đã liên hệ với Nguyễn Thị H, sinh năm 1980, trú tại phố K, phường N, thành phố N là nhân viên bán xăng của Công ty TNHH đầu tư và dịch vụ Khánh Linh (gọi tắt là công ty Khánh Linh) và Công ty TNHH Vinh Ninh Bình (gọi tắt là Công ty Vinh Ninh Bình) do ông Phạm Xuân V, sinh năm 1950, trú tại phường T, thành phố N là giám đốc và người điều hành để mua 09 số hóa đơn GTGT “khống” với mặt hàng ghi trong hóa đơn là dầu diezel nhưng không có hàng hóa thực tế kèm theo (gồm hoá đơn số 0014792 ngày 09/3/2020; số 0014887 ngày 15/3/2020; số 0014969 ngày 20/3/2020; số 0015068 ngày 26/3/2020; số 0015153 ngày 30/3/2020; số 0015249 ngày 31/3/2020; số 0020000 ngày 20/4/2020; số 0020075 ngày 25/4/2020; số 0023448 ngày 29/6/2020) với tổng giá trị hàng hóa trước thuế của 09 hóa đơn là 4.440.000.289 đồng; thuế GTGT là 444.000.029 đồng; tổng tiền hàng phải thanh toán là 4.884.000.318 đồng. T và Nguyễn Thị H thỏa thuận ông V được hưởng 3% doanh số chưa có thuế ghi trên hoá đơn tương ứng với số tiền 133.200.008 đồng. Sau khi nhận được 09 hóa đơn GTGT “khống”, T đã trả cho ông V số tiền 133.200.008 đồng bằng tiền mặt. Để hợp lý hóa việc mua các hóa đơn “khống” trên, T lập các chứng từ, giấy uỷ nhiệm chi, giấy giới thiệu chưa ghi nội dung đưa cho Hoàng Khánh H - Giám đốc công ty ký, đóng dấu, sau đó T giao lại toàn bộ hồ sơ, chứng từ của Công ty Khánh Hoàn cho Nguyễn Thị H. Nhận được hồ sơ, chứng từ khống do T cung cấp Nguyễn Thị H dùng tiền mặt nộp vào tài khoản của Công ty Khánh Hoàn tại Ngân hàng BIDV N - Phòng giao dịch huyện N. Sau đó Nguyễn Thị H tiếp tục làm thủ tục chuyển khoản toàn bộ số tiền vừa nộp từ tài khoản của Công ty Khánh Hoàn trả lại vào tài khoản của Công ty TNHH Vinh Ninh Bình.

Sau khi mua được 09 hóa đơn GTGT “khống” của Công ty Vinh Ninh Bình và Công ty Khánh Linh, T sử dụng chữ ký điện tử của Công ty Khánh Hoàn kê khai lập Tờ khai thuế GTGT cho cả 4 quý năm 2020, trong đó kê khai giá trị hàng hóa mua vào là 09 hóa đơn GTGT, mặt hàng dầu dizen với tổng giá trị hàng hóa trước thuế là 4.440.000.289 đồng; thuế GTGT là 444.000.029 đồng, kê khai giá trị hàng hóa bán ra là 07 hóa đơn GTGT đã xuất bán hàng cho Công ty Nam Phương Ninh Bình với tổng giá trị hàng hóa trước thuế là 10.306.815.700 đồng; thuế GTGT là 1.030.681.570 đồng; Số tiền thuế GTGT năm 2020 Công ty Khánh Hoàn được giảm là 444.000.029 đồng, số tiền thuế còn phải nộp là 586.681.541 đồng.

Ngày 05/03/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh đã phát hiện vụ việc, lập biên bản làm việc với Công ty Khánh Hoàn và thu giữ 07 hóa đơn GTGT điện tử xuất bán hàng hóa thật của Công ty Khánh Hoàn cho Công ty Nam Phương cùng các chứng từ kèm theo việc xuất hàng; 09 hóa đơn GTGT “khống” Công ty Khánh Hoàn mua của Công ty Vinh Ninh Bình và Công ty Khánh Linh; thu giữ 05 tờ giấy A4 có nội dung tin nhắn giữa H và T về số tiền thuế 70% T nhận từ H để mua hóa đơn GTGT khống kê khai hàng hóa đầu vào cho Công ty Khánh Hoàn.

Ngày 08/11/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình ra Quyết định trưng cầu giám định số 130/QĐ-CSKT Trưng cầu giám định viên tư pháp trong lĩnh vực Thuế thuộc Cục thuế tỉnh Ninh Bình giám định thiệt hại về thuế do hành vi sử dụng hoá đơn GTGT khống để kê khai chi phí đầu vào của Công ty TNHH Khánh Hoàn.

Tại bản Kết luận giám định ngày 26/11/2021 của Cục thuế tỉnh Ninh Bình kết luận “Tại thời điểm ngày 05/3/2020 Công ty TNHH Khánh Hoàn 70 sử dụng 09 số hoá đơn GTGT “khống” của Công ty TNHH đầu tư và dịch vụ Khánh Linh, Công ty TNHH Vinh Ninh Bình với tổng giá trị hàng hoá trước thuế là 4.440.000.289 đồng kê khai hoá đơn mua vào thiệt hại cho sắc thuế:

a. Đối với thuế GTGT: Căn cứ vào kết quả xác minh của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình nêu tại Quyết định trưng cầu giám định số 130/QĐ-CSKT ngày 8/11/2021 và các tài liệu của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình cung cấp, hành vi của Công ty Khánh Hoàn 70 sử dụng 09 hoá đơn GTGT “khống” (không có hàng hoá thực tế kèm theo) mặt hàng là diezen của Công ty TNHH đầu tư và dịch vụ Khánh Linh, Công ty TNHH Vinh Ninh Bình để kê khai thuế GTGT đầu vào của tờ khai các quý năm 2020 với tổng số giá trị hàng hoá trước thuế là GTGT là: 4.440.000.289 đồng, thuế GTGT mua vào là 444.000.029 đồng. Như vậy, việc Công ty kê khai 09 hoá đơn đầu vào trên là không đúng với quy định tại khoản 15, Điều 14, Mục 1 Chương III Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ tài chính quy định về các trường hợp không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Giá trị thiệt hại về thuế GTGT cho NSNN tại thời điểm ngày 5/3/2021 là 444.000.029 đồng.

b. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp: Căn cứ vào tài liệu do Cơ quan cảnh sát điều tra cung cấp, do công ty không lập tờ khai thuế TNDN năm 2020, không có đầy đủ chứng từ sổ sách kế toán nên Giám định viên không đủ cơ sở giám định đối với khoản thu này”.

Sau khi vụ việc trốn thuế của Công ty Khánh Hoàn bị phát hiện, ngày 3/11/2021 Công ty Khánh Hoàn đã lập tờ khai thuế GTGT bổ sung cho Tờ khai thuế Quý IV năm 2020, trong đó giảm toàn bộ 09 hóa đơn GTGT khống đã kê khai và tăng số thuế Công ty Khánh Hoàn phải nộp là 1.030.681.570 đồng. Đến nay Công ty Khánh Hoàn chưa nộp số tiền thuế trên vào ngân sách Nhà nước.

Tại biên bản làm việc với Cơ quan điều tra ngày 5/5/2022 Chi cục thuế khu vực Nho Quan - Gia Viễn đề nghị buộc các bị can phải nộp lại số tiền 444.000.029 đồng cho Chi cục thuế để nộp ngân sách Nhà nước. Số tiền thuế còn lại 586.681.541 đồng và số tiền chậm nộp thuế Công ty Khánh Hoàn chưa nộp ngân sách Nhà nước, Công ty Khánh Hoàn đã kê khai thuế theo quy định, không phải tiền trốn thuế Chi cục thuế sẽ có trách nhiệm đôn đốc, yêu cầu Công ty Khánh Hoàn nộp vào ngân sách Nhà nước theo quy định, nếu chậm nộp Chi cục thuế sẽ xử lý theo quy định của pháp luật về thuế.

Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Khánh H và Trần Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

* Việc thu giữ và xử lý vật chứng:

Viện kiểm sát đã ra quyết định chuyển số tiền 311.000.000 đồng do các bị can tự nguyện nộp để khắc phục hậu quả từ tài khoản tạm giữ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình đến tài khoản của Cục thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình giữ nguyên quan điểm truy tố như Bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Khánh H và Trần Văn T phạm tội: “Trốn thuế”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 200; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hoàng Khánh H;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 200; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 35 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Văn T;

Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

- Xử phạt bị cáo Hoàng Khánh H từ 500.000.000 đồng đến 600.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 250.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc Công ty TNHH Khánh Hoàn 70 phải trả lại cho Chi cục thuế khu vực Nho Quan - Gia Viễn số tiền 444.000.029 đồng đã chiếm đoạt.

Ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo Hoàng Khánh H, Trần Văn T đã nộp đủ số tiền 444.000.029 để khắc phục hậu quả.

Các bị cáo bị tuyên là có tội nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo rất ân hận về hành vi của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu; lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của đại diện bị hại, của những người làm chứng, phù hợp với bản Kết luận giám định ngày 26/11/2021 của Cục thuế tỉnh Ninh Bình đã kết luận: “Tại thời điểm ngày 05/3/2020 Công ty Khánh Hoàn 70 sử dụng 09 số hóa đơn GTGT “khống” của Công ty TNHH đầu tư và dịch vụ Khánh Linh, Công ty TNHH Vinh Ninh Bình với tổng giá trị hàng hóa trước thuế là 4.440.000.289 đồng kê khai hóa đơn mua vào thiệt hại cho sắc thuế của Nhà nước là 444.000.029 đồng thuế GTGT không đúng với quy định tại khoản 15, Điều 14, Mục 1 Chương III Thông tư số 219/2013/TT - BTC ngày 31/12/2013 của Bộ tài chính quy định về các trường hợp không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào”; lời khai của các bị cáo còn phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Trong thời điểm kê khai nộp thuế năm 2020 Hoàng Khánh H - Giám đốc Công ty TNHH Khánh Hoàn 70, trụ sở tại thôn P, xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình đã bàn bạc với Trần Văn T - Kế toán công ty mua và sử dụng 09 hóa đơn GTGT “khống” (không có hàng hóa thực tế kèm theo) mặt hàng là dầu diezen của Công ty TNHH Vinh Ninh Bình và Công ty TNHH Khánh Linh để kê khai thuế GTGT đầu vào với tổng giá trị hàng hóa trước thuế là 4.440.000.289 đồng, thuế GTGT đầu vào là 444.000.029 đồng nhằm mục đích làm giảm số tiền thuế phải nộp, gây thiệt hại về thuế cho ngân sách Nhà nước tại thời điểm ngày 5/3/2021 là 444.000.029 đồng, hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Trốn thuế” thuộc trường hợp “Số tiền trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 200 Bộ luật Hình sự.

Điều 200. Tội trốn thuế 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) …..

d) Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn;

…..

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

a) .........................

b) Số tiền trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

....................

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đã truy tố các bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật cần chấp nhận.

[2]. Hành vi phạm tội của các bị cáo Hoàng Khánh H, Trần Văn T đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, làm thất thu ngân sách Nhà nước, do đó cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật để giáo dục, răn đe các bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.

[3] Khi quyết định hình phạt cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, của các bị cáo để quyết định hình phạt cho phù hợp:

- Đối với Hoàng Khánh H là Giám đốc Công ty TNHH Khánh Hoàn 70 là người nhận thức được các quy định của pháp luật trong hoạt động doanh nghiệp và các quy định của ngành thuế, phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án. Bị cáo không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo là người có nhân thân xấu năm 2009 đã bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn xét xử về tội “Đánh bạc” đã được xóa án tích, nhưng không lấy đó làm bài học mà lại vi phạm pháp luật. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện nộp lại số tiền 233.000.029 đồng để khắc phục hậu quả, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự, cần áp dụng hình phạt chính bằng tiền là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Đối với bị cáo Trần Văn T được H giao nhiệm vụ làm kế toán, là người giúp cho Giám đốc trực tiếp cân đối đầu vào, đầu ra, kê khai thuế cho Công ty TNHH Khánh Hoàn 70, bị cáo nắm rõ các quy định của pháp luật về thuế nhưng đã cùng H sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm (trốn thuế) số tiền thuế phải nộp là 444.000.029 đồng tiền thuế GTGT, nên T phải chịu trách nhiệm hình sự sau Giám đốc H. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện nộp lại số tiền 211.000.000 đồng để khắc phục hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; mặt khác bố đẻ bị cáo là ông Trần Văn Qúy được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; anh Trần Tiến Dũng là anh trai bị cáo (đang ở với bị cáo) bị mặc bệnh tâm thần có hồ sơ bệnh án; hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cần áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và áp dụng hình phạt chính bằng tiền là thỏa đáng.

Sau khi các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, từ đó đến nay các bị cáo gặp nhiều khó khăn, do đó Hội đồng xét xử thấy cần miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo là phù hợp.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Buộc Công ty TNHH Khánh Hoàn 70 phải trả lại cho Chi cục thuế khu vực Nho Quan - Gia Viễn số tiền đã chiếm đoạt thuế GTGT là: 444.000.029 đồng.

[5] Ngoài ra, trong vụ án này ông Phạm Xuân V - Giám đốc và là người điều hành Công ty TNHH Vinh Ninh Bình, Công ty TNHH đầu tư dịch vụ Khánh Linh và Nguyễn Thị H là nhân viên bán xăng của hai công ty đã bán trái phép 9 hóa đơn GTGT “khống” mặt hàng dầu diezen (không có hàng hóa thực tế kèm theo) cho Công ty Khánh Hoàn với tổng giá trị hàng hóa trước thuế là 4.440.000.289 đồng thu lời bất chính số tiền 133.200.008 đồng. Ngày 06/01/2022 Cơ quan điều tra đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phạm Xuân V và Nguyễn Thị H về tội “Mua bán trái phép hóa đơn” theo điều 203 của Bộ luật Hình sự để điều tra xử lý bằng vụ án khác.

[6]. Hội đồng xét xử xét thấy các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo đã tranh luận trong phiên tòa là hợp pháp và được chấp nhận.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử thấy các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Về án phí: Các bị cáo bị kết án có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 200; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hoàng Khánh H;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 200; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 35 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Văn T;

Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Các bị cáo Hoàng Khánh H, Trần Văn T phạm tội: “Trốn thuế” .

- Xử phạt bị cáo Hoàng Khánh H 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn T 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc Công ty TNHH Khánh Hoàn 70 phải trả lại cho Chi cục thuế khu vực Nho Quan - Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình số tiền thuế đã chiếm đoạt là 444.000.029 đồng.

Ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo Hoàng Khánh H, Trần Văn T đã nộp đủ số tiền 444.000.029 đồng để khắc phục hậu quả (Trần Văn T nộp 211.000.000 đồng, Hoàng Khánh H nộp 233.000.029 đồng).

Tiếp tục quản lý số tiền 311.000.000 đồng, số tiền này Công an tỉnh Ninh Bình đã chuyển vào tài khoản của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình theo ủy nhiệm chi số 04 ngày 24/6/2022 tại kho bạc Nhà nước tỉnh Ninh Bình và số tiền 133.000.029 đồng theo Biên lai thu số AA/2021/0000287 ngày 8/7/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình để đảm bảo thi hành án.

3. Về án phí: Các bị cáo Hoàng Khánh H, Trần Văn T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2022/HS-ST về tội trốn thuế

Số hiệu:21/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;