Bản án 21/2021/HS-ST ngày 13/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 13/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Quốc T (Tên gọi khác: N), sinh năm 1989 tại Bình Dương. Hộ khẩu thường trú: Khu phố 3, thị trấn T, huyện B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ trang điểm; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Đ và bà Phạm Thị V; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo bị bắt quả tang từ ngày 06/12/2020 sau đó chuyển sang tạm giữ, tạm giam cho đến nay; có mặt.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Trần Lê D, sinh năm 1993. Địa chỉ: Số 148/12/20/6 T, Phường 10, Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bà Trần Nguyễn Phương U, sinh năm 1991. Địa chỉ: Số 500/100, P, Phường 3, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Huỳnh Thế Q; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 06/12/2020, Phạm Quốc T điều khiển xe môtô biển số 59P2-335.91 chở bạn tên Trần Lê D đi từ thành phố Hồ Chí Minh về nhà của T tại Khu phố 3, thị trấn T, huyện B, tỉnh Bình Dương để chơi. Khi đi đến đoạn đường thuộc Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh thì T kêu D xuống xe và đứng đợi. T đi vào con hẻm cách khoảng 1km gặp một người tên K (Không rõ nhân thân, lai lịch) để mua ma túy. Người tên K đưa cho T một túi nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng (Ma túy đá) và T đưa lại cho người tên K số tiền 1.500.000 đồng. T cất giấu ma túy vào túi quần bên phải rồi điều khiển xe quay lại chỗ D đang đứng chờ và chở D về thị trấn T, huyện B, tỉnh Bình Dương. Khi T và D đi đến xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện và thu giữ:

- 01 túi nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng bên trong túi quần của Trưởng.

- 02 ống thủy tinh, một đầu được thổi phòng.

- 01 xe môtô biển số 59P2-335.91, số khung: R2HJFG30XF2 050799, số máy:

JF63E-1050807.

- 01 điện thoại di động hiệu APPLE IphoneX màu đen.

Tại Bản kết luận giám định số 756/MT-PC09 ngày 14/12/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy có khối lượng 2,3352 gam (Loại Methamphatamine).

Ngày 16/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Bình Dương đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phạm Quốc T để điều tra về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại Cáo trạng số 21/CT-VKS-BTU ngày 01/4/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phạm Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Phạm Quốc T từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp, đề nghị Hội đồng xét xử:

Đối với xe môtô biển số 59P2-335.91 là của bà Trần Nguyễn Phương U. Ngày 06/12/2020, bị cáo T mượn xe của bà U làm phương tiện đi lại và bà U không biết bị cáo T sử dụng xe làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã trả lại cho bà U.

Đối với 01 bì thư đã được Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương niêm phong bên trong chứa chất ma túy, loại Methamphatamine có trọng lượng 2,2680gam (Trọng lượng sau giám định) và 02 ống thủy tinh được uốn cong, một đầu được thổi phòng là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành và bị cáo dùng vào việc phạm tội, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu APPLE IphoneX màu đen, bị cáo Phạm Quốc T sử dụng để liên lạc mua ma túy, đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo thống nhất kết luận giám định, nội dung bản cáo trạng, không tranh luận và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt.

[3] Về nội dung vụ án: Ngày 06/12/2020, tại xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương, bị cáo Phạm Quốc T đã có hành vi tàng trữ trái phép 2,3352 gam ma túy (Loại Methamphatamine) để sử dụng thì bị bắt quả tang. Xét bị cáo T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. Do đó, Cáo trạng số 21/CT-VKS-BTU ngày 01/4/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phạm Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, nguyên nhân làm các tội phạm khác nảy sinh, gây nguy hại cho sức khỏe của bị cáo và có thể là những người khác trong xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo phạm tội nghiêm trọng, Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức hình phạt thật nghiêm bằng hình phạt tù có thời hạn mới đủ tác dụng trừng trị, răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[7] Đối với ông Trần Lê D không biết Phạm Quốc T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra xác định, ông Trần Lê D có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an huyện B, tỉnh Bình Dương đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 750.000 đồng là có căn cứ.

[8] Đối với người tên K chưa rõ nhân thân, lai lịch có hành vi bán ma túy và hành vi bán ma túy xảy ra tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Bình Dương đã thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh điều tra, xử lý theo thẩm quyền là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Đối với xe môtô biển số 59P2-335.91 là của bà Trần Nguyễn Phương U. Ngày 06/12/2020, bị cáo T mượn xe của bà U làm phương tiện đi lại, bà U không biết bị cáo T sử dụng xe làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã trả lại cho bà U là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với 01 bì thư đã được Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương niêm phong bên trong chứa chất ma túy (Loại Methamphatamine) có trọng lượng sau giám định là 2,2680gam và 02 ống thủy tinh được uốn cong, một đầu được thổi phòng là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành và bị cáo dùng vào việc phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu APPLE IphoneX màu đen, bị cáo sử dụng để liên lạc để mua ma túy, cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[10] Xét đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt đối với bị cáo, xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

1.1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Quốc T (Tên gọi khác: N) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Phạm Quốc T (Tên gọi khác: N) 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06 tháng 12 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

2.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) bì thư đã được Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương niêm phong bên trong chứa chất ma túy, loại Methamphatamine có trọng lượng 2,2680gam (Trọng lượng sau giám định) và 02 (Hai) ống thủy tinh được uốn cong, một đầu được thổi phòng.

2.2. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động hiệu APPLE IphoneX màu đen.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Quốc T (N) phải nộp số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2021/HS-ST ngày 13/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;