Bản án 21/2021/HS-ST ngày 05/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG NHÉ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 05/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2021/QĐXXST - HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 đối với.

Bị cáo Cháng A S sinh ngày 01 tháng 01 năm 1964 tại xã Tà T, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản Nậm V, xã Chung Ch, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm nương; trình độ văn hoá: Không; dân tộc: HMông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cháng A D (đã chết) và con bà Giàng Thị S ( đã chết); có vợ là Lầu Thị N sinh năm 1969 và 05 con; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị Tòa án kết tội lần nào. Bị cáo Cháng A S bắt tạm giữ từ ngày 28 tháng 11 năm 2020 đến ngày 01 tháng 12 năm 2020, từ ngày 01 tháng 12 năm 2020 đến nay được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cứ trú, bị cáo tại ngoại có mặt.

- Người phiên dịch cho bị cáo : Anh Kháng Quang Vinh Trú tại: Tổ dân cư số 3, xã Mường Nhé, huyện Mường Nhé – Điện Biên.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Pờ Go Lòong – luật sư thuộc đoàn luật sư tỉnh Điện Biên thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 27 tháng 11 năm 2020, bị cáo Cháng A S đi bộ trong bản Nậm V, xã Chung Ch, huyện Mường Nhé thì có một người đàn ông dân tộc HMông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu. Bị cáo Cháng A S đã mua được 05(năm) gói thuốc phiện với số tiền là 300.000 đồng, mua bán xong người đàn ông đó đi đâu bị cáo Cháng A S không biết, còn bị cáo Cháng A S cầm số thuốc phiện đó cất dưới đệm giường ngủ. Mục đích để sử dụng và bán lẻ kiếm tiền. Khoảng 12 giờ 10 phút ngày 28 tháng 11 năm 2020, khi bị cáo Cháng A S đang ở nhà thì có một người đàn ông dân tộc HMông đến tự giới thiệu tên là Kháng nhà ở bản Húy To, xã Chung Chải, huyện Mường Nhé hỏi mua thuốc phiện với số tiền là 60.000 đồng thì bị tổ công tác Công an huyện Mường Nhé và tổ công tác Đồn biên phòng Leng Su Sìn phối hợp bắt quả tang, lợi dụng sơ hở người đàn ông tên Kháng bỏ chạy không bắt được, tổ công tác thu giữ toàn bộ vật chứng. Sau đó đưa về Công an huyện Mường Nhé để làm rõ.

Ngày 29 tháng 11 năm 2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Nhé cùng với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng, khối lượng thuốc phiện thu giữ của Cháng A S là 18,14 gam.

Bản kết luận giám định số: 1029/GĐ-PC09 ngày 07 tháng 12 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất dẻo màu nâu đen khối lượng 3,3 gam gửi giám định của Cháng A S là thuốc phiện không hoàn lại. Tổng khối lượng 18,14 gam thu được của Cháng A S là Thuốc phiện.

Bản cáo trạng số: 10/CT-VKSMN ngày 03 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé đã truy tố Cháng A S để xét xử về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; Xử phạt bị cáo Cháng A S từ 30 đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 BLHS đối với bị cáo; Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Tịch thu tiêu hủy vật chứng vụ án. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 của UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho rằng bị cáo Cháng A S thực hiện hành vi phạm tội do nhận thức pháp luật còn hạn chế. Về tội danh không có ý kiến gì. Tình tiết giảm nhẹ trong vụ án đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét xử phạt cho bị cáo Cháng A S mức hình phạt là 30 tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, nhất trí với nội dung truy tố trong Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nhất trí với lời bào chữa và không có ý kiến bổ sung. Lời sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với lý do hoàn cảnh gia đ nh khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi phạm tội bị cáo thấy: Lời khai nhận bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng đã có đủ cơ sở để khẳng định: Vào 12 giờ 10 phút ngày 28 tháng 11 năm 2020 tổ công tác Công an huyện Mường Nhé và tổ công tác Đồn biên phòng Leng Su Sìn làm nhiệm vụ tại khu vực bản Nậm Vì, xã Chung Chải, huyện Mường Nhé phát hiện, bắt quả tang Cháng A S đang bán thuốc phiện cho người tên là Kháng với số tiền 60.000 đồng và tịch thu 18,14 gam thuốc phiện là hoàn toàn có căn cứ.

Hành vi tàng trữ trái phép khối lượng 18,14 gam thuốc phiện nhằm mục đích để sử dụng và bán lẻ kiếm tiền bất chính của Cháng A S đã phạm tội " Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điều 251 BLHS. Do đó HĐXX có đủ căn cứ kết luận bị cáo Cháng A S đã phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251 BLHS.

Vì vậy, VKSND huyện Mường Nhé truy tố bị cáo Cháng A S về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật, bị cáo không bị oan sai.

Về tình tiết định khung hình phạt: Vào 12 giờ 10 phút ngày 28 tháng 11 năm 2020 tổ công tác Công an huyện Mường Nhé và tổ công tác Đồn biên phòng Leng Su Sìn làm nhiệm vụ tại khu vực bản Nậm Vì, xã Chung Chải, huyện Mường Nhé phát hiện, bắt quả tang Cháng A S đang bán thuốc phiện lấy số tiền là 60.000 đồng và cất dấu 18,14 gam thuốc phiện là hoàn toàn có căn cứ. Hành vi tàng trữ trái phép khối lượng 18,14 gam thuốc phiện nhằm mục đích để sử dụng và bán lẻ kiếm tiền bất chính của Cháng A S đã phạm tội " Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS.

[2] Xét về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội bị cáo thấy: Đây là vụ án nghiêm trọng về ma túy, mặc dù bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Song chỉ vì muốn có tiền để sử dụng, bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây những tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, gây mất trật tự trị an, cản trở tới việc thực hiện các chính sách kinh tế, làm gia tăng các tệ nạn xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Do vậy cần xử lý bị cáo với mức hình phạt thỏa đáng phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3]Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo thấy: Bị cáo Cháng A S sinh ra và lớn lên ở xã Tà T, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, do hoàn cảnh gia đ nh khó khăn nên không được đi học lớn lên ở nhà phụ giúp gia đ nh. Trong quá tr nh điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo Cháng A S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 BLHS.

[4] Từ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy cần áp dụng một hình phạt thỏa đáng để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Cháng A S từ 30 đến 36 tháng tù. Xét thấy đề nghị này của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó cần xem xét, xử phạt bị cáo như đề nghị của Viện kiểm sát.

Người bào chữa đề nghị áp dụng theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự có căn cứ áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét xử phạt cho bị cáo Cháng A S mức hình phạt là 30 tháng tù đề nghị chưa phù hợp; Hội đồng xét xử xét thấy không cần áp dụng.

[5] Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo còn nhiều khó khăn, thuộc diện hộ nghèo. Do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung với mức phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng theo khoản 5 Điều 251 BLHS đối với bị cáo.

[6] Đối với người đàn ông dân tộc HMông bán thuốc phiện, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi địa chỉ ở đâu, do đó không có cơ sở để xử lý.

Đối với người đàn ông tên là Kháng ở bản Húy To, xã Chung Chải, huyện Mường Nhé qua xác minh không có ai tên như vậy, nên không đặt vấn đề xử lý trong vụ án.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 BLHS;

điểm a, b khoản 2 Điều 106 BLTTHS; Đối với khối lượng 14,84 gam thuốc phiện còn lại sau khi trích gửi giám định cần tịch thu tiêu hủy. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) cân tiểu ly là công cụ phạm tội. Tịch thu số tiền là 60.000 đồng là tiền do phạm tội mà có sung ngân sách Nhà nước.

[8] Về án phí: Xét thấy bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số, thường trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn đề nghị miễn án phí. Do đó cần miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Điều tra viên, Viện kiểm sát; Kiểm sát viên trong quá tr nh điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, thành viên hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa; người phiên dịch, người bào chữa đều đã thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, không bị khiếu nại hoặc ý kiến gì.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Cháng A S phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý".

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Xử phạt bị cáo Cháng A S: 32 ( Ba mươi hai) tháng tù. Khấu trừ thời gian tạm giữ là 03 ngày. Bị cáo Cháng A S còn phải chấp hành án là: 31 tháng 27 ngày. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành án tại trại.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 BLHS;

điểm a, b khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu số tiền là 60.000 đồng ( sáu mươi ngh n đồng) nộp sung vào ngân sách Nhà nước tại tài khoản của Chi cục Thi Hành Án Dân Sự huyện Mường Nhé. Số tài khoản là: 3949.0.1072731.00000 tại Kho bạc Nhà nước huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên.

- Tịch thu tiêu huỷ khối lượng 14,84 gam thuốc phiện là vật chứng vụ án Cháng A S.

- Tịch thu tiêu hủy 01( một) cân tiểu ly là công cụ phạm tội.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 02 năm 2021 giữa Công an huyện Mường Nhé và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 của UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016. Miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo .

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Cháng A S có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2021/HS-ST ngày 05/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Nhé - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;