Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 31/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

 TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

 BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 31 tháng 03 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 546/2020/TLST-HNGĐ ngày 8/12/2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 11/03/2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Lâm Hoàng A, sinh năm 1997 Địa chỉ: ấp K, xã LP, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

* Bị đơn: Anh Trần Thanh H, sinh năm 1991 Địa chỉ: ấp A, thị trấn K, huyện KS, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 01/12/2020, nguyên đơn chị Lâm Hoàng A trình bày: Vào năm 2016 chị với anh Trần Thanh H tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn K, huyện KS, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 22/02/2016. Quá trình chung sống, anh chị có một con chung là cháu Trần Lâm Hiền T, sinh ngày 4/8/2016, hiện nay cháu T đang sống chung với chị. Sau đó anh chị phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H hay ghen, thường xuyên rượu chè, cờ bạc và đánh đập chị nhiều lần, hiện nay anh chị không còn chung sống với nhau. Nay nhận thấy vợ chồng sống chung không hạnh phúc nên chị yêu cầu ly hôn với anh Hào, xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Trần Thanh H trình bày: Anh thống nhất với lời trình bày của chị A về hôn nhân, con chung. Nguyên nhân chị A xin ly hôn thì anh không rõ. Hiện nay anh làm công ở thành phố H, 01 tháng về 01- 02 lần. Đối với yêu cầu xin ly hôn của chị A thì do Tòa án quyết định, con chung ai nuôi cũng được, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của pháp luật, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự và quan hệ pháp luật đang tranh chấp là chính xác, tại phiên tòa Hội đồng xét xử đúng thành phần, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị A và anh H được ly hôn, giao con chung cho chị A nuôi, anh H không cấp dưỡng, về tài sản chung và nợ chung không đặt ra xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

[2] Năm 2016, chị Lâm Hoàng A và anh Trần Thanh H tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn K, huyện KS, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 22/02/2016. Vì vậy, hôn nhân của anh chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Chị A cho rằng sau một thời gian chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn do anh H thường xuyên rượu chè, cờ bạc và đánh đập chị nhiều lần, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nên anh chị không còn chung sống với nhau. Tại phiên tòa, anh H xác định việc hôn nhân của anh chị do Tòa án giải quyết. Thấy rằng: Hôn nhân giữa chị A và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị đã không còn chung sống với nhau, không có biện pháp hàn gắn tình cảm, không còn quan tâm, chăm sóc nhau, tại phiên tòa chị A cương quyết xin ly hôn với anh H. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A, cho chị và anh H được ly hôn để mỗi người tạo lập cuộc sống mới.

[3] Về con chung: Chị A và anh H có một người con chung là cháu Trần Lâm Hiền T, sinh ngày 4/8/2016, hiện nay cháu T đang sống chung với chị A. Chị A yêu cầu được nuôi cháu T đến tuổi trưởng thành, anh H đồng ý giao cháu T cho chị A nuôi dưỡng. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu T cho chị A trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh H không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do chị A không yêu cầu.

[5] Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh H, không ai được quyền ngăn cản.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị A và anh H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Chị A phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[8] Như đã nhận định nêu trên, đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lâm Hoàng A.

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lâm Hoàng A được ly hôn với anh Trần Thanh H.

2/. Về con chung: Giao cháu Trần Lâm Hiền T, sinh ngày 4/8/2016 cho chị Lâm Hoàng A trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

3/. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Trần Thanh H không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

4/. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh Trần Thanh H, không ai được quyền ngăn cản.

5/. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lâm Hoàng A và anh Trần Thanh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

6/. Về án phí: Chị Lâm Hoàng A phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai số 0006838 ngày 7/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện KS, tỉnh Sóc Trăng. Chị A đã nộp đủ tiền án phí. Anh H không phải chịu án phí sơ thẩm.

7/. Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

8/. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 31/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;