Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 499/2020/TLST- HNGĐ, ngày 19 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: bà Thị Ng; Sinh năm 1999 Trú tại: thôn 3, xã N, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Bị đơn: ông Điểu L; Sinh năm 1992;

Trú tại: thôn 2, xã N, huyện B, tỉnh Bình Phước (Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt và xin giải quyết vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện ngày 06/11/2020 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Thị Ng trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: bà Ng và ông Điểu L tự nguyện chung sống vào năm 2013 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N vào năm 2017. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 6/2020 thì hai bên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống, ông L thường bỏ bê gia đình và con cái, không lo làm ăn, nhiều lần xúc phạm nhân phẩm của bà. Mặc dù bà Ng và gia đình hai bên đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng ông L không thay đổi. Hiện nay bà Ng thấy tình cảm hai bên không còn, mâu thuẫn đã quá trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, bà Ng không thể tiếp tục chung sống với ông L nên yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông L.

Về con chung: có 02 con chung Điểu Thị Huyền M, sinh ngày: 31/7/2014 và Điểu Thị Mẫn N, sinh ngày: 07/11/2019. Sau khi ly hôn bà Ng có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 cháu và không đặt ra vấn đề cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại phiên tòa bị đơn ông Điểu L vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên theo bản tự khai và các tài liệu trong hồ sơ ông L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: ông L và bà Ng tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2013, đến năm 2017 thì tiến hành đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã N. Ông thừa nhận vào năm 2016 ông có đánh bà Ng, vợ chồng ông sống chung với bố mẹ ruột của ông, kinh tế không ổn định, hai vợ chồng phải đi làm thuê, bản thân bà Ng sống chung với gia đình ông cũng chịu nhiều áp lực. Năm 2018 ông nghi ngờ bà Ng ngoại tình nhưng không có chứng cứ. Ông cho rằng mâu thuẫn giữa ông và bà Ng không nghiêm trọng. Do hai bên bất đồng quan điểm nên ông và bà Ng đã sống ly thân từ tháng 5/2020 liên tục cho đến nay, trong thời gian ly thân mạnh ai nấy sống kinh tế độc lập. Bà Ng yêu cầu ly hôn ông không đồng ý, nếu bà Ng kiên quyết ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Về con chung: có 02 con chung Điểu Thị Huyền M, sinh ngày: 31/7/2014 và Điểu Thị Mẫn N, sinh ngày: 07/11/2019. Nếu ly hôn ông L có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu Điểu Thị Huyền M, giao cháu Điểu Thị Mẫn N cho bà Ng trực tiếp nuôi dưỡng và không đặt ra vấn đề cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông L không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì; không có yêu cầu phản tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào lời khai của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn bà Thị Ng làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn ông Điểu L theo quy định. Do bị đơn ông Điểu L có nơi cư trú tại xã N, huyện B, tỉnh Bình Phước, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước.

Về mâu thuẫn gia đình: bà Ng và ông L chung sống với nhau vào năm 2013 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N vào năm 2017. Như vậy hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Theo lời khai của các bên có trong hồ sơ vụ án bà Ng và ông L chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân bất đồng quan điểm sống, không có sự tôn trọng và không hòa hợp nhau trong cuộc sống, ngoài ra mâu thuẫn về kinh tế gia đình. Bà Ng và ông L thường xuyên cải nhau và đã sống ly thân từ tháng 5/2020 liên tục cho đến nay, trong thời gian ly thân mạnh ai nấy sống kinh tế độc lập. Mâu thuẫn trên ông L cũng thừa nhận. Như vậy có cơ sở xác định bà Ng và ông L đã có sự vi phạm về nghĩa vụ của người vợ, người chồng đối với nhau, hai bên không còn sự tôn trọng yêu thương chăm sóc, giúp đỡ đối với nhau. Đối chiếu với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, xét thấy hôn nhân giữ bà Ng và ông L lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của nguyên đơn bà Ng là có căn cứ cần chấp nhận.

[2] Về con chung: có 02 con chung Điểu Thị Huyền M, sinh ngày: 31/7/2014 và Điểu Thị Mẫn N, sinh ngày: 07/11/2019. Theo các tài liệu có trong hồ sơ, bà Ng và ông L đều thống nhất, bà Ng nuôi dưỡng cháu N, giao cháu M cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, cần giao cháu My cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu N cho bà Ng nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của các bên.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: các bên không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[3] Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[4] Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[5] Về án phí: Nguyên đơn bà Ng phải chịu theo luật định.

Quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 35; khoản 4 Điều 147; Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án ngày 30/12/2016.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Thị Ng về việc ly hôn. Bà Thị Ng được ly hôn với ông Điểu L.

[2]. Về con chung: giao cháu Điểu Thị Huyền M, sinh ngày: 31/7/2014 cho ông Điểu L trực tiếp trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Giao Điểu Thị Mẫn N, sinh ngày: 07/11/2019 cho bà Thị Ng trực tiếp trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu thành niên.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng: Các bên không đặt ra nên không xem xét.

[3]. Về tài sản chung: Không có, nên không xem xét giải quyết.

[4]. Về nợ chung: Không có, nên không xem xét giải quyết.

[5]. Về án phí: Nguyên đơn bà Thị Ng phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà nguyên đơn đã nộp trước là 300.000đ theo biên lai thu tiền số 015831 ngày 19/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bình Phước.

[6]. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã nơi đương sự cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;