Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 860/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 11 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 307/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2021/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn 8, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Vũ Trọng K, sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn 8, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Nguyễn Thị Thúy H là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Chị kết hôn với anh Vũ Trọng K trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Minh Tân, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 01 tháng 4 năm 2013. Sau lễ cưới, chị về chung sống cùng với anh K tại thôn 8, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, bất đồng trong sinh hoạt và trong xây dựng kinh tế gia đình; vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau về mặt tình cảm nên thường xuyên xảy ra xung đột. Chị H đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở từ năm 2015, vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Gia đình đã động viên hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Vũ Trọng K. Chị H và anh K có 01 con chung tên Vũ Trọng G, sinh ngày 31 tháng 10 năm 2013. Khi ly hôn, chị H đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Chị và anh K tự thỏa thuận về cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, chị và anh K không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản.

Anh Vũ Trọng K là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng, song đến ngày mở phiên tòa, anh K vẫn không có ý kiến về việc chị Nguyễn Thị Thúy H xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Nguyễn Thị Thúy H được ly hôn anh Vũ Trọng K; đề nghị giao con Vũ Trọng G, sinh ngày 31 tháng 10 năm 2013 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng

Bị đơn là anh Vũ Trọng K đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu của chị Nguyễn Thị Thúy H ly hôn với anh Vũ Trọng K Chị H và anh K kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, kết hôn giữa chị H và anh K là hợp pháp. Tài liệu xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Minh Tân và tại gia đình anh Vũ Trọng K thể hiện, chị H và anh K chung sống hòa thuận đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không có việc làm ổn định, kinh tế khó khăn. Chị H và anh K không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống gia đình dẫn đến cãi mắng xúc phạm lẫn nhau. Chị H đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở từ năm 2015, gia đình hai bên đã khuyên giải nhiều lần nhưng vợ chồng vẫn không đoàn tụ. Tại các bản tự khai và tại phiên tòa, chị H vẫn giữ nguyên đề nghị được ly hôn với anh Vũ Trọng K, anh K vắng mặt tại các buổi làm việc và không có ý kiến gì đối với đề nghị của chị H, thể hiện anh K không tha thiết vợ chồng đoàn tụ. Từ những chứng cứ nêu trên, cho thấy mục đích hôn nhân giữa chị H và anh K không đạt được, mâu thuẫn đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H xin ly hôn anh K.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị H và anh K có 01 con chung tên Vũ Trọng G, sinh ngày 31 tháng 10 năm 2013. Khi ly hôn, chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, chị H là người trực tiếp nuôi con; việc nuôi dưỡng đã ổn định, con chung được chăm sóc, phát triển bình thường về tâm sinh lý, con chung có nguyện vọng được ở cùng với mẹ. Chị H là công nhân, đảm bảo thu nhập ổn định để nuôi con. Anh K không có quan điểm về người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện, hoàn cảnh của chị H, của anh K, Hội đồng xét xử xét giao cho chị Nguyễn Thị Thúy H trực tiếp nuôi con tên Vũ Trọng G là phù hợp.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Chị H đề nghị tự thỏa thuận với anh K và không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con; anh K không có quan điểm về việc cấp dưỡng nuôi con. Xét đề nghị của đương sự là tự nguyện, quyền lợi của con chung vẫn được đảm bảo nên Hội đồng xét xử không giải quyết về cấp dưỡng nuôi con trong vụ án này.

[4] Về tài sản chung, chị Nguyễn Thị Thúy H khai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Mặt khác không có lời khai của anh Vũ Trọng K về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, chị Nguyễn Thị Thúy H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,

- Cho chị Nguyễn Thị Thúy H được ly hôn với anh Vũ Trọng K.

- Giao cho chị Nguyễn Thị Thúy H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Vũ Trọng G, sinh ngày 31 tháng 10 năm 2013 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Chị Nguyễn Thị Thúy H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0015546 ngày 20/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Nguyễn Thị Thúy H đã nộp đủ án phí.

- Chị Nguyễn Thị Thúy H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Vũ Trọng K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;