Bản án 21/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội cướp giật tài sản

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẬU LỘC, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 21/2020/HS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Phạm Bá V; sinh năm 1992 tại huyện L, tỉnh Thanh Hóa; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Th, xã T, huyện L, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Bá Th và bà Lê Thị Ý; vợ: Đinh Thị Th và có 04 con; tiền sự, tiền án: Không; nhân thân: Ngày 22/4/2009 bị Tòa án nhân dân huyện L xử phạt 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 52 tháng về tội “Cướp tài sản”; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/12/2019 đến nay. Có mặt.

2. Nguyễn Văn H; sinh năm 1992 tại huyện L, tỉnh Thanh Hóa; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Th, xã T, huyện L, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Phạm Thị C, vợ, con: Chưa; tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/12/2019 đến nay. Có mặt.

Bị hại:

1. Anh Ngô Văn Q, sinh năm 1978. Có đơn xin xét xử vắng mặt. Địa chỉ: Thôn B, xã Q, huyện L, tỉnh Thanh Hoá.

2. Chị Đỗ Thị A, sinh năm 1995. Có đơn xin xét xử vắng mặt. Địa chỉ: Khu 2, thị trấn H, huyện L, tỉnh Thanh Hóa 3. Chị Nguyễn Thị Q, sinh ngày 23/3/2003. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Ngưi đại diện hợp pháp cho bị hại Nguyễn Thị Q: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1980.

Có đơn xin xét xử vắng mặt Đều có địa chỉ: Thôn Ph, xã Đ, huyện L, tỉnh Thanh Hóa.

Ngưi liên quan:

1. Chị Trần Thị Th, sinh năm 1978. Vắng mặt.

Đa chỉ: Tiểu khu 6, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

2. Anh Nguyễn Anh Đ, sinh năm 1984. Vắng mặt.

Đa chỉ: Khu Tr, thị trấn H, huyện L, tỉnh Thanh Hóa.

3. Anh Phạm Bá V, sinh năm 1986. Vắng mặt.

4. Chị Đinh Thị Th, sinh năm 1992. Vắng mặt.

Đu có địa chỉ: Thôn Th, xã T, huyện L, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17h30’ ngày 14/12/2019, Phạm Bá V điều khiển xe môtô BKS 36B5-667.47 đến nhà Nguyễn Văn H rủ H đi cướp giật tài sản của người khác để bán lấy tiền chi tiêu cá nhân, H đồng ý; đến khoảng 21h30’ cùng ngày, V chở H đi đến địa phận khu Tr, thị trấn H, huyện L thì phát hiện thấy anh Ngô Văn Q ở thôn B, xã Q đang cầm điện thoại đứng cạnh xe máy dừng ở phía bên trái đường theo chiều đi. Thấy vậy, V liền điều khiển xe quay lại và đi đến sát anh Q, còn H ngồi sau xe dùng tay phải giật chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng anh Q đang cầm, rồi V tăng ga điều khiển xe bỏ chạy. Sau đó, V điều khiển xe chở H đi về và H cầm điện thoại về nhà cất giấu.

ng ngày 17/12/2019, Vũ và H mang điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng đã giật được của anh Q đến cửa hàng điện thoại Ch của gia đình chị Trần Thị Th ở tiểu khu 6, thị trấn H, huyện H nhờ chạy lại phần mềm điện thoại, rồi bán điện thoại cho chị Th với giá 400.000 đồng; số tiền này V và H đã chia đôi, rồi chi tiêu cá nhân hết. Nhận thấy không thể trốn tránh được pháp luật, nên vào hồi 16h ngày 19/12/2019, Phạm Bá V đã đến Công an huyện L xin đầu thú, giao nộp xe môtô biển kiểm soát 36B5- 667.47 và khai báo nội dung vụ việc; cùng ngày cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L thi hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Văn H.

Ngoài ra, quá trình điều tra còn làm rõ:

Vào khoảng 20h30’ ngày 16/12/2019, Vũ điều khiển xe môtô biển kiểm soát 36B5- 667.47 đến nhà rủ H đi cướp giật tài sản, H đồng ý cả hai đã đi đến địa phận thôn Đ, xã H, huyện L thì phát hiện thấy chị Đỗ Thị A ở khu 2, thị trấn H, huyện L đang cầm điện thoại ngồi trên xe máy dừng ở phía bên trái đường theo chiều đi. Thấy vậy, V liền điều khiển xe quay lại và đi đến sát chị A, còn H ngồi sau xe dùng tay phải giật chiếc điện thoại nhãn hiệu Oppo F7 màu bạc của chị A đang cầm, rồi Vũ tăng ga điều khiển xe bỏ chạy. Sau đó, V điều khiển xe chở H đi về và H cầm điện thoại về nhà cất giấu. Sáng ngày 17/12/2019, V và H mang điện thoại nhãn hiệu Oppo F7 màu bạc đã giật được của chị A đến cửa hàng điện thoại Ch nhờ chạy lại phần mềm điện thoại cùng với điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng đã giật được của anh Q, rồi bán điện thoại cho chị Th với giá 2.000.000 đồng; số tiền này V và H đã chia đôi, rồi chi tiêu cá nhân hết. Tổng số tiền V và H đã bán 02 cái điện thoại cho chị Th mà có là 2.400.000 đồng.

Tiếp đó, vào khoảng 11h ngày 17/12/2019, Vũ điều khiển xe môtô BKS 36B5-667.47 đến nhà rủ H đi cướp giật tài sản, H đồng ý. Đến khoảng 12h cùng ngày, V chở H đi đến địa phận thôn T, xã L, huyện L thì phát hiện thấy cháu Nguyễn Thị Q sinh ngày 23/3/2003 ở thôn Ph, xã Đ, huyện L đang dừng xe đứng nghe điện thoại ở phía bên trái đường theo chiều đi. Thấy vậy, V liền điều khiển xe quay lại và đi đến sát cháu Q, còn H ngồi sau xe dùng tay phải giật chiếc điện thoại nhãn hiệu Masster X3 màu vàng của cháu Q đang cầm, rồi V tăng ga điều khiển xe bỏ chạy về nhà. Đến khoảng 14h cùng ngày, V và H mang điện thoại nhãn hiệu Masster X3 màu vàng đã giật được của cháu Q đến cửa hàng điện thoại T của gia đình anh Nguyễn Anh Đ ở khu Tr, thị trấn H, huyện L nhờ anh Đ chạy lại phần mềm điện thoại để bán và để lại điện thoại ở cửa hàng của anh Đ rồi đi về, chiếc điện thoại này V và H chưa bán được.

Cơ quan Công an huyện L đã tạm giữ điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng và điện thoại nhãn hiệu Oppo F7 màu bạc tại cửa hàng điện thoại Ch, do chị Trần Thị Th tự nguyện giao nộp, tạm giữ điện thoại nhãn hiệu Masster X3 màu vàng tại cửa hàng điện thoại T, do anh Nguyễn Anh Đ tự nguyện giao nộp. Tại kết luận định giá tài sản số 52/KL-HĐĐG ngày 25/12/2019, số 01/KL-HĐĐG ngày 02/01/2020 và số 02/KL-HĐĐG ngày 08/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hậu Lộc kết luận: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng trị giá 5.660.000 đồng, 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo F7 màu bạc trị giá 2.796.000 đồng và 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel X3 màu vàng trị giá 960.000 đồng.

Về vật chứng: Xe môtô BKS 36B5-667.47 bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, quá trình điều tra xác định chiếc xe môtô trên là của anh Phạm Bá V ở thôn Th, xã T, huyện L, V mượn xe anh V không biết V đã sử dụng xe vào việc phạm tội nên đã trả lại chiếc xe trên cho anh V.

Trong quá trình điều tra vụ án, gia đình Phạm Bá V và gia đình Nguyễn Văn H đã tự nguyện bồi thường cho chị Trần Thị Th số tiền 2.400.000 đồng, anh Nguyễn Anh Đ chưa chạy lại phần mềm điện thoại, nên chị Th, anh Đ không có đề nghị gì.

Cáo trạng số 22/CT-VKSHL ngày 06/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện L, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố các bị cáo Phạm Bá V và Nguyễn Văn H về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo về tội danh, điều luật nêu trên và sau khi đánh giá tính chất vụ án, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm r, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố các bị cáo Phạm Bá V và Nguyễn Văn H phạm tội “Cướp giật tài sản” và đề nghị áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Phạm Bá V từ 60 tháng tù đến 66 tháng tù, Nguyễn Văn H từ 48 tháng tù đến 54 tháng tù.

Về án phí: Các bị cáo chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Ti phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng đã truy tố, đồng ý với Bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa và lời nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để các bị cáo cải tạo, sớm trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hậu Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và các bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Vụ thứ nhất: Khoảng 21h30’ ngày 14/12/2019, Phạm Bá V điều khiển xe môtô BKS 36B5-667.47 chở Nguyễn Văn H đi đến địa phận khu Tr, thị trấn L thì phát hiện thấy anh Ngô Văn Q đang cầm điện thoại đứng cạnh xe máy dừng ở phía bên trái đường theo chiều đi; V điều khiển xe quay lại và đi đến sát anh Q, còn H ngồi sau xe dùng tay phải giật cái điện thoại Iphone 6 Plus anh Q đang cầm, rồi điều khiển xe bỏ chạy về nhà H và cất giấu điện thoại. Kết luận định giá tài sản số 52/KL-HĐĐGHS ngày 25/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L kết luận: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng hiện tại có giá 5.660.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 20h30’ ngày 16/12/2019, Vũ điều khiển xe môtô BKS 36B5- 667.47 chở Nguyễn Văn H đi đến địa phận thôn Đ, xã H thì phát hiện thấy chị Đỗ Thị A đang cầm điện thoại ngồi trên xe máy dừng ở phía bên trái đường theo chiều đi. Thấy vậy, V liền điều khiển xe quay lại và đi đến sát chị A, còn H ngồi sau xe dùng tay phải giật cái điện thoại nhãn hiệu Oppo F7 màu bạc của chị A, rồi điều khiển xe bỏ chạy về nhà cất giấu. Kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGHS ngày 02/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L kết luận: 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo F7 màu bạc hiện tại có giá 2.796.000 đồng.

Vụ thứ ba: Khoảng 12h ngày 17/12/2019, Phạm Bá V điều khiển xe môtô BKS 36B5- 667.47 chở Nguyễn Văn H đi đến địa phận thôn T, xã L, huyện L thì phát hiện thấy cháu Nguyễn Thị Q ở thôn Ph, xã Đ, đang dừng xe đứng nghe điện thoại ở phía bên trái đường theo chiều đi. Thấy vậy, V điều khiển xe quay lại và đi đến sát cháu Q, còn H ngồi sau xe dùng tay phải giật cái điện thoại nhãn hiệu Masster X3 màu vàng của cháu Q đang cầm, rồi điều khiển xe bỏ chạy về nhà. Kết luận định giá tài sản số 02/KL-HĐĐGHS ngày 08/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hậu Lộc kết luận: 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel X3 màu vàng có giá 960.000 đồng.

ng ngày 17/12/2019, V và H mang điện thoại nhãn hiệu Oppo F7 màu bạc đã giật được của chị A và chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng đã giật được của anh Q đến cửa hàng điện thoại Ch nhờ chạy lại phần mềm điện thoại, rồi bán hai chiếc điện thoại cho chị Th với giá 2.400.000 đồng; đến khoảng 14h cùng ngày, V và H mang điện thoại nhãn hiệu Masster X3 màu vàng đã giật được của cháu Q đến cửa hàng điện thoại T của gia đình anh Nguyễn Anh Đ ở khu Tr, thị trấn L, huyện L nhờ anh Đ chạy lại phần mềm điện thoại để bán và để lại điện thoại ở cửa hàng của anh Đ rồi đi về.

Hành vi dùng xe môtô là phương tiện nguy hiểm để giật, chiếm đoạt tài sản của người khác của các bị cáo Phạm Bá V, Nguyễn Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm của tội “Cướp giật tài sản” tội phạm, hình phạt được quy định và trừng trị tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất của vụ án thì thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng, trong khoảng thời gian 04 ngày các bị cáo đã sử dụng xe môtô thực hiện ba vụ cướp tài sản, hành vi đó đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân được Nhà nước bảo vệ, gây bức xúc, lo lắng cho nhân dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Các bị cáo đã dùng xe môtô để đi dọc các tuyến đường giao thông để khi phát hiện các bị hại sơ hở trong việc sử dụng điện thoại rồi áp sát bị hại để giật điện thoại, hành vi thực hiện tội phạm của các bị cáo gây nguy hiểm đến tính mạng sức khỏe, gây nguy hiểm cho xã hội. Do đó cần phải xử lý nghiêm, có hình phạt phù hợp nhằm giáo dục các bị cáo và giáo dục chung cho xã hội.

[4] Trong vụ án các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, để có hình phạt phù hợp với mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo cần phân hóa vai trò của từng bị cáo trong vụ án. Đối với bị cáo Phạm Bá V đến rủ Nguyễn Văn H thực hiện tội phạm, là người trực tiếp điều khiển môtô áp sát người bị hại để Huy thực hiện việc giật tài sản, do đó V có vai trò thứ nhất của vụ án, có hình phạt cao hơn so với H. Đối với bị cáo Nguyễn Văn H là người trực tiếp thực hiện tội phạm nhưng có vai trò hạn chế hơn so với V nên hình phạt thấp hơn V.

[5] Xét về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo trong thời gian ngắn đã thực hiện 03 lần phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng là “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, tài sản các bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu; sau khi bị bắt các bị cáo đã tự khai nhận ra các lần phạm tội ngày 16, 17/12/2019 nên đây là tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội tự thú”; bị cáo V sau khi phạm tội đã ra đầu thú; bị cáo H có thời gian phục vụ trong quân đội, có thành tích xuất sắc trong quân đội được tặng danh hiệu “Chiến sỹ tiên tiến”. Do đó cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để lượng giảm cho các bị cáo một phần hình phạt thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

Bị cáo Phạm Bá V có nhân thân không tốt đã bị xét xử, được xóa án nhưng khi quyết định hình phạt cần xem xét nhân thân của bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo nghề nghiệp lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo.

[8] Về phần bồi thường dân sự: Tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho các bị hại và các bị hại không có yêu cầu gì nên không xem xét.

[9] Về án phí: Các bị cáo là người bị kết án và không thuộc trường hợp miễn án phí nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm r, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tun bố: Các bị cáo Phạm Bá V, Nguyễn Văn H phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Bá V 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/12/2019.

Bị cáo Nguyễn Văn H 04 (Bốn) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/12/2019.

Án phí: Buộc các bị cáo Phạm Bá V, Nguyễn Văn H mỗi bị cáo chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thi người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Quyn kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:21/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hậu Lộc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;