Bản án 21/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MS - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 21/2020/HS-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2020/TLST- HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Lò Văn H. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 29/12/1969 tại huyện MS, tỉnh Sơn La.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi ở: Bản M, xã CM, huyện MS, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Mai S, đã chết và bà: Cầm Thị V, sinh năm 1936; Bị cáo có vợ là Vì Thị D, sinh năm 1970, đã ly hôn; Bị cáo có 03 con, con lớn 32 tuổi, con nhỏ 28 tuổi.

Tiền sự: không.

Tiền án: Bản án hình sự số: 98/2018/HS-ST ngày 22.10.2018 của Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La xử phạt Lò Văn H 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 14.9.2019 bị cáo chấp hành xong hình phạt.

Nhân thân:

Bản án số: 29/HSST ngày 18.7.1996 của Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La xử phạt Lò Văn H 06 tháng tù về tội Sử dụng trái phép chất ma túy.

Bản án số: 129/HSST ngày 20.8.2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt Lò Văn H 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy:

 Bản án số: 30/HSST ngày 09.4.2013 của Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La xử phạt Lò Văn H 30 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Bị cáo đã đương nhiên được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/8/2020 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Hồ Trọng C, sinh năm 1980. Trú quán: Thôn 3, xã CB, MS, Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 13.8.2020, Lò Văn H mang theo 450.000VNĐ đi bộ từ nhà đến khu vực ngã ba bản M, xã CM, huyện MS mục đích mua ma túy để sử dụng và bán kiếm lời. Tại đây, H gặp một người đàn ông không biết tên, địa chỉ đang dừng xe mô tô ở lề đường. Trong khi nói chuyện, H hỏi mua 450.000VNĐ heroine và đưa tiền, người đàn ông nhận tiền rồi lấy từ túi quần đang mặc 01 gói nilon màu trắng trong chứa heroine đưa cho H, H cầm gói heroine ở tay phải đi bộ về nhà, còn người đàn ông đi đâu làm gì H không biết. Tại nhà kho của gia đình, H dùng cân điện tử chia số ma túy vừa mua được thành 03 phần, H sử dụng hết một phần, 02 phần còn lại H sử dụng 02 mảnh giấy trắng có dòng kẻ gói lại thành 02 gói rồi dùng mảnh nilon màu xanh và dây chun màu vàng quấn lại cất vào túi bên phải của chiếc quần lao động treo trong nhà kho. Khoảng 15 giờ cùng ngày, H đang ở nhà thì Hồ Trọng Côn đến hỏi mua heroine, H lấy 01 gói heroine bán cho Côn với giá 200.000VNĐ, Côn cất gói heroine vào túi áo bên phải đi tìm nơi sử dụng thì bị Tổ công tác Công an huyện MS phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm: Phát hiện trong túi áo ngực bên phải Côn đang mặc có 01 gói giấy màu trắng chứa chất bột nén màu trắng, Côn khai số chất bột này là heroine mua của Lò Văn H vào hồi 15 giờ cùng ngày mục đích để sử dụng. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hồ Trọng Côn.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện MS tiến hành khám xét khẩn cấp đối với người, chỗ ở, đồ vật của Lò Văn H tại bản Mạt, xã CM, huyện MS, kết quả phát hiện thu giữ tại túi quần bên phải treo trong nhà kho của gia đình H 01 gói nilon màu xanh quấn bên ngoài bằng dây chun màu vàng bên trong có 01 gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng nghi là heroine; 02 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ ô ly và 01 cân điện tử màu đen hiệu POKETSCALE tại phòng ngủ của H.

Ngày 13.8.2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện MS phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mẫu giám định đối với vật chứng thu giữ của Hồ Trọng Côn và Lò Văn H, kết quả:

Khối lượng chất bột màu trắng thu giữ của Hồ Trọng Côn là 0,019 gam, lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu M1.

Khối lượng chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn H là 0,08gam, lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu M2.

Tại bản kết luận giám định số 1350/KLMT ngày 20/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:

“- Mẫu gửi giám định ký hiệu M1, M2 là ma túy; loại heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định M1= 0,019gam, M2= 0,08gam.

- Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,099 gam; loại heroine.” Bản cáo trạng số: 113/CT-VKSMS ngày 16/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện MS đã truy tố bị cáo Lò Văn H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1, 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lò Văn H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn H từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Phạt bổ sung bị cáo từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.

Về vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, dây chun màu vàng, mảnh nilon màu xanh, các mảnh giấy trắng có dòng kẻ ô ly gói ma túy ban đầu; 01 phong bì bên trong có vật chứng còn lại 0,04gam heroine; 01 phong bì thư bên trong có 02 mảnh giấy trắng có dòng kẻ ô ly, 01 cân điện tử nhãn hiệu POKETSCALE.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu ASANZO-N2 vỏ màu đen kèm theo 01 sim điện thoại và số tiền 900.000VNĐ.

Tịch thu sung công quỹ của bị cáo 200.000VNĐ do bị cáo bán ma túy mà có (trích trong tổng số tiền 1.100.000VNĐ thu giữ của bị cáo).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Bị cáo Lò Văn H tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận khoảng 09 giờ ngày 13.8.2020 Lò Văn H đã mua 450.000VNĐ heroine của một người đàn ông không quen biết về để sử dụng và bán kiếm lời. Cùng ngày bị cáo đã bán cho Hồ Trọng C 0,019 gam heroine với gía 200.000VNĐ, quá trình khám xét chỗ ở của bị cáo thu giữ 0,08gam heroine, mục đích của bị cáo để sử dụng và nếu ai mua sẽ bán để thu lợi.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 15 giờ 30 phút ngày 13.8.2020 của Tổ công tác Công an huyện MS; Biên bản khám xét khẩn cấp, biên bản thu giữ vật chứng của Cơ quan điều tra; biên bản mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, trích mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng, kết luận giám định về ma túy số 1350/KLMT ngày 20/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có gì mâu thuẫn. Tại phiên tòa không phát sinh chứng cứ mới.

Như vậy đã có đầy đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Bản cáo trạng số: 113/CTVKSMS ngày 16.11.2020 của Viện kiểm sát MS truy tố bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[2] Xét thấy tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Nhận thức được hành vi Mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng do bị cáo không chịu tu dưỡng nên đã phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, làm cho tệ nạn về ma túy ngày càng lan rộng, gây ảnh mất an ninh trật tự tại địa phương.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo có nhận thân xấu, có 01 tiền án chưa được xóa án tích theo bản án hình sự số: 98/2018/HSST ngày 22.10.2018 của Tòa án nhân dân huyện MS xử phạt bị cáo 18 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo còn nhiều lần bị Tòa án xét xử về tội phạm ma túy vào các năm 1996, năm 2001 và năm 2013, tuy bị cáo đã đương nhiên xóa án tích nhưng cho thấy bị cáo không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng đối với bị cáo khi quyết định hình phạt.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải có một hình phạt tù có thời hạn, để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định, bản thân bị cáo không có tài sản riêng có giá trị lớn, tuy nhiên khi khám xét có thu giữ của bị cáo được một số vật chứng có giá trị. Do đó cần áp dụng khoản 5 Điều 251, khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật hình sự, phạt bổ sung bị cáo 1.000.000VNĐ.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại điểm b, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự giải quyết như sau:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, dây chun màu vàng, mảnh nilon màu xanh, các mảnh giấy trắng có dòng kẻ ô ly gói ma túy ban đầu; 01 phong bì bên trong có vật chứng còn lại 0,04gam heroine; 01 phong bì thư bên trong có 02 mảnh giấy trắng có dòng kẻ ô ly, 01 cân điện tử nhãn hiệu POKETSCALE.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu ASANZO-N2 vỏ màu đen kèm theo 01 sim điện thoại và số tiền 900.000VNĐ.

Tịch thu sung công quỹ của bị cáo 200.000VNĐ do bị cáo bán ma túy mà có (trích trong tổng số tiền 1.100.000VNĐ thu giữ của bị cáo).

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện MS, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện MS, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiến nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo khai mua ma túy của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ tại khu vực bản M, xã CM, huyện MS, tỉnh Sơn La. Do việc mua bán không có người tham gia, chứng kiến. Ngoài lời khai của bị cáo, Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, mở rộng vụ án nên cần chấp nhận.

[8] Về các vấn đề liên quan: Đối với Hồ Trọng Côn là người mua 0,019gam heroine của bị cáo, về nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Côn bằng hình thức phạt tiền theo điểm a, khoản 2 Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12.11.2013 của Chính phủ là hoàn toàn phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định chung.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn H 28 (Hai mươi tám) tháng tù.

Thời gian thụ hình tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 13/8/2020).

Phạt bổ sung bị cáo 1.000.000VNĐ để sung công quỹ nhà nước.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự: điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, dây chun màu vàng, mảnh nilon màu xanh, các mảnh giấy trắng có dòng kẻ ô ly gói ma túy ban đầu; 01 phong bì bên trong có vật chứng còn lại 0,04gam heroine; 01 phong bì thư bên trong có 02 mảnh giấy trắng có dòng kẻ ô ly, 01 cân điện tử nhãn hiệu POKETSCALE.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu ASANZO-N2 vỏ màu đen kèm theo 01 sim điện thoại và số tiền 900.000VNĐ.

Tịch thu sung công quỹ của bị cáo 200.000VNĐ do bị cáo bán ma túy mà có (trích trong tổng số tiền 1.100.000VNĐ thu giữ của bị cáo).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;