Bản án 21/2020/HS-ST ngày 22/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 21/2020/HS-ST NGÀY 22/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22/5/2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Q mở phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án hình sự thụ lý số: 23/2020/HS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo.

1.Họ và tên: Đỗ Mạnh A; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 19 tháng 12 năm 1997, tại thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú: Tổ C, khu K, phường N, Thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không. Con ông: Đỗ Văn N- Con bà: Đinh Thị M. Gia đình bị cáo có 02 anh anh em, bị cáo là con lớn. Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Chưa có. Bị cáo đầu thú ngày 14/02/2020, bị tạm giữ đến ngày 23/02/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện tại ngoại- Có mặt tại phiên tòa.

2. Người bị hại:

- Anh Đỗ Văn Đ, sinh năm 1992. Trú tại: Tổ B, Khu P, phường Y, Thành phố U, tỉnh Quảng Ninh - Vắng mặt. (Có đơn xin xử vắng mặt).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Huy A1, sinh năm 1984 Trú tại: Tổ C, Khu T, phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh- Có mặt tại phiên tòa.

- Bà Đinh Thị M, sinh năm 1972, địa chỉ: Tổ C, khu K, phường N, Thành phố U, tỉnh Quảng Ninh- Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 05/01/2020, Đỗ Mạnh A đi xe mô tô của gia đình cùng bạn gái mới quen tên M (Không rõ lý lịch cá nhân) đến nhà Nguyễn Văn T, sinh năm 1991, tại thôn 7, xã S, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh chơi và ăn cơm tối cùng một số người bạn của anh T. Trong lúc mọi người đang chuẩn bị đồ ăn, A thấy anh Đỗ Văn Đ, sinh năm 1992, trú tại: Khu P, phường Y, TP U say rượu đang ngủ trên giường, điện thoại di động đang để bên cạnh nên A nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. A đã lén lút đến lục túi quần anh Đ lấy 01 chiếc điện thoại di đông nhãn hiệu Iphone 7Plus 32 GB màu đen cùng số tiền 500.000đồng và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen gần chỗ anh Đ nằm ngủ. A cất số tài sản trên vào túi quần rồi một mình đi xe mô tô đến cửa hàng sửa chữa điện thoại Huy A1 tại Khu T, phường N, Thành phố U bán cho anh Nguyễn Huy A1 là chủ cửa hàng 02 chiếc điện thoại vừa trộm cắp được với giá 600.000đồng rồi quay lại nhà anh T ăn cơm tối, xong về nhà, sau đó bỏ trốn khỏi địa phương.

Khoảng 19 giờ cùng ngày, anh Đ phát hiện bị mất tài sản nên đã mở định vị tìm vị trí chiếc điện thoại Iphone của mình thì phát hiện đang ở cửa hàng điện thoại Huy A1 nên anh Đ đã trình báo Công an thị xã Q.

Ngày 14/02/2020, biết được thông tin bị truy nã nên Đỗ Mạnh A đã đến cơ quan Công an đầu thú và khai nhận A bộ hành vi phạm tội của mình.

- Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại: Anh Đỗ Văn Đ. Khoảng 17 giờ ngày 05/01/2020 anh có đến gia đình anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1991, trú tại: Thôn 7, xã S, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh ăn cơm cùng một số người bạn. Trong lúc chờ ăn cơm do mệt anh có vào phòng riêng nhà anh T ngủ, trước khi ngủ anh có để 01 chiếc điện thoại di đông nhãn hiệu Iphone 7Plus 32 GB màu đen và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen ở cạnh người khi nằm ngủ. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày khi được gọi dậy ăn cơm thì anh phát hiện thấy mất hai chiếc điện thoại và 500.000đồng trong túi quần, anh Đ có hỏi mọi người nhưng không ai biết. Do đó, anh Đ có mượn điện thoại di động của anh H2 để định vị xem chiếc điện thoại của mình đang ở đâu thì phát hiện ra chiếc điện thoại của anh đang ở khu vực phường N, thành phố U. Sau đó anh Đ cùng anh L, anh H2 có lên phường N, U để tìm thì phát hiện hai chiếc điện thoại của anh đang ở cửa hàng điện thoại “Huy A1”, anh Đ có hỏi về việc ai là người cầm cố chiếc 02 chiếc điện thoại trên tại đây thì qua Camera giám sát và chủ cửa hàng điện thoại cho biết, anh nhận ra người trộm cắp tài sản của anh là Đỗ Mạnh A là người cùng ăn cơm với anh tại nhà anh Nguyễn Văn T. Sau đó anh Đ đã chuộc lại 02 chiếc điện thoại trên với số tiền 630.000đồng và đến Công an xã S trình báo nội dung sự việc và giao nộp lại vật chứng vụ án. Đến ngày 16/02/2020 gia đình bị cáo Đỗ Mạnh A đã đến xin lỗi anh và tự nguyện bồi thường cho anh số tiền 1.200.000đồng, trong đó gồm có số tiền 500.000đồng là tiền anh bị mất và 700.000đồng là tiền anh chuộc 02 chiếc điện thoại. Vì thế về phần dân sự anh không yêu cầu bồi thường thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

-Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Huy A1 có lời khai: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 05/01/2020 anh đang ở cửa hàng điện thoại của gia đình tại Khu T, phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh thì có một thanh niên đến đặt vấn đế muốn bán chiếc 02 chiếc điện thoại gồm 01 chiếc điện thoại di đông nhãn hiệu Iphone 7Plus 32 GB màu đen và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, hai bên thỏa thuận và anh đồng ý mua 02 chiếc điện thoại trên với giá 600.000đồng. Sau đó đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày thì có 03 người thanh niên đến hỏi anh về nguồn gốc hai chiếc điện thoại và nhận là chủ của hai chiếc điện thoại trên, anh HA1 kể lại toàn bộ nội dung việc mua bán điện thoại và xem lại Camera an ninh tại cửa hàng thì mọi người nhận ra người thanh niên bán điện thoại cho anh là Đỗ Mạnh A và qua biên bản nhận dạng do công an thị xã Q lập hồi 9 giờ ngày 06/3/2020 anh nhận ra người bán điện thoại cho anh vào hồi 17 giờ 30 phút ngày 05/01/2020 là Đỗ Mạnh A. Sau đó ba người này chuộc lại 02 chiếc điện thoại trên với số tiền 630.000đồng. Quan điểm của anh A1 toàn bộ số tiền mua, bán điện thoại của anh đã nhận lại lên anh không yêu cầu gì.

-Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị M có lời khai: Bà là mẹ đẻ của Đỗ Mạnh A là bị cáo trộm cắp tài sản tại xã S, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh Vào ngày 05/01/2020 của anh Đỗ Văn Đ. Sau khi trộm cắp tài sản, A đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên đã tự nguyện đưa cho bà số tiền 1.200.000đ là tiền riêng của A để bồi thường cho người bị hại để khắc phục hậu quả. Quan điểm của bà M số tiền 1.200.000đ là tài sản của A nên bà không có ý kiến gì và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

- Người làm chứng anh Nguyễn Văn T có lời khai: Vào khoảng 17 giờ ngày 05/01/2020 anh có mời một số người đến nhà anh ăn cơm trong đo có Đỗ Mạnh A, sinh năm 1991, trú tại: Tổ C, khu K, phường N, thành phố U, Đỗ Văn Đ, sinh năm 1992, trú tại: Khu P, phường Y, TP U và một số người. Trong lúc chờ ăn cơm do anh Đ say rượu nên có vào phòng ngủ, đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày mọi người vào gọi anh Đ dậy ăn cơm thì anh Đ nói mất 02 chiếc điện thoại di động gồm có 01 chiếc điện thoại di đông nhãn hiệu Iphone 7Plus 32 GB màu đen và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen và số tiền 500.000đồng để trong túi. Sau đó anh Đ hỏi mọi người có ai nhặt được không thì tất cả mọi người trong đó có Đỗ Mạnh A nói không biết, anh Đ mượn điện thoại của anh H2 để định vị xem vị trí điện thoại của mình ở đâu thì phát hiện thấy điện thoại của anh Đ đang ở khu vực phường N, thành phố U. Sau đó anh Đ, cùng anh L, anh H2 có lên phường N,U để tìm thì phát hiện hai chiếc điện thoại của anh Đ đang ở cửa hàng điện thoại “Huy A1”, anh Đ có hỏi về việc ai là người cầm cố chiếc 02 chiếc điện thoại trên tại đây thì qua Camera giám sát và chủ cửa hàng điện thoại cho biết thì anh nhận ra người trộm cắp tài sản của anh là Đỗ Mạnh A là người cùng ăn cơm với anh tại nhà anh T. Sau đó anh Đ chuộc lại điện thoại quay về Công an xã S trình báo.

-Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Q số 04/ KL-HĐĐG ngày 07/01/2020 kết luận: 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7Plus 32GB, màu đen đã qua sử dụng trị giá còn lại 5.525.000đồng; 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen đã quan sử dụng trị giá 75.000đồng. Tổng trị giá tài sản là 5.600.000đồng (Năm triệu sáu trăm nghìn đồng).

- Bản cáo trạng số 22/CT-VKSQY ngày 27/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q truy tố bị cáo Đỗ Mạnh A về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173- Bộ Luật hình sự.

- Tại phiên Tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q giữ quyền công tố nhà nước vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Đỗ Mạnh A về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173- Bộ Luật hình sự.

- Đề nghị: Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm b,i, s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1, 2 Điều 65 - Bộ luật hình sự - Đề nghị Hội đồng xét xử xử bị cáo Đỗ Mạnh A từ 06 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 24 tháng. Kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Phần tranh luận: Bị cáo không tranh luận gì với quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thị -Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên Tòa; Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thị xã Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ: Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Mạnh A khai nhận hành vi phạm tội của mình. Do được anh Nguyễn Văn T mời đến nhà anh T tại thôn 7, xã S, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh chơi và ăn cơm tối cùng một số người bạn của anh T. Do đó, khoảng 17 giờ 30 phút ngày 05/01/2020, Đỗ Mạnh A đi xe mô tô của gia đình cùng bạn gái đến nhà Nguyễn Văn T. A thấy anh Đỗ Văn Đ say rượu đang ngủ trên giường, điện thoại di động đang để bên cạnh nên A nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. A đã lén lút đến lục túi quần anh Đ lấy 01 chiếc điện thoại di đông nhãn hiệu Iphone 7Plus 32 GB màu đen cùng số tiền 500.000 đồng và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen của anh Đ rồi một mình đi xe mô tô đến cửa hàng sửa chữa điện thoại Huy A1 tại Khu T, phường N, TP U bán cho anh Nguyễn Huy A1 02 chiếc điện thoại vừa trộm cắp được với giá 600.000 đồng rồi quay lại nhà anh T ăn cơm tối, xong về nhà, sau đó bỏ trốn khỏi địa phương.

[3] Như vậy căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo trước Tòa, lời khai của người bị hại và của những người làm chứng, vật chứng thu giữ và kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17h30’ ngày 05/01/2020, tại khu 7, xã S, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh, lợi dụng sơ hở của người bị hại anh Đỗ Văn Đ, bị cáo Đỗ Mạnh A đã trộm cắp 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7Plus 32GB, màu đen đã qua sử dụng trị giá còn lại 5.525.000 đồng; 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen đã quan sử dụng trị giá 75.000đồng của anh Đ đem bán tiêu sài cá nhân hết. Tổng trị giá tài sản là 5.600.000 đồng (Năm triệu sáu trăm nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo Đỗ Mạnh A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 - Bộ Luật hình sự. Như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát là hoàn A khách quan, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Khoản 1 Điều 173 - Bộ Luật hình sự quy định;

1. “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đ đến dưới 50.000.000 đồng, hoặc dưới 2.000.000đồng nhưng thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” .

Tài sản thuộc quyền sở hữu của công dân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, nếu ai xâm phạm sẽ bị pháp luật nghiêm trị.

Đỗ Mạnh A là người đã trưởng thành nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng do tu dưỡng, rèn luyện đạo đức kém, lười lao động tham lam nên đã cố tình đi trộm cắp tài sản của người khác bán lấy tiền thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Sau đó bỏ trốn khỏi địa phương gây khó khăn cho công tác điều tra, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã đối với bị cáo. Do đó, cần có hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe giáo dục phòng ngừa chung và trừng trị riêng đối với bị cáo.

[8] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, gảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

-Tình tiết tăng nặng: Không có.

-Tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên Tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tiền án tiền sự chưa có, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội tác động gia đình, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả. Gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p, s khoản 1, 2 Điều 51- Bộ Luật hình sự. Vì vậy giảm nhẹ phần hình phạt cho bị cáo.

[9]Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 - Bộ Luật hình sự có thể phạt bị cáo một khoản tiền sung ngân sách Nhà nước. Nhưng xét bị cáo không nghề nghiệp, kinh tế khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[10]Về xử lý vật chứng: Vật chứng vụ án quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại cho người bị hại nên không đề cập giải quyết.

[11]Về bồi thường dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm nên không đề cập giải quyết.

[12] Đối với hành vi của anh Nguyễn Huy A1 mua 02 chiếc điện thoại của A do phạm tội mà có. Nhưng anh A1 không biết tài sản do A phạm tội mà có nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

[13] Về án phí hình sự: Bị cáo phải nộp theo quy định.

-Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

-Tuyên bố: Các bị cáo Đỗ Mạnh A phạm tội Trộm cắp tài sản”

-Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm b,i,s khoản 1, 2 Điều 51- Bộ Luật hình sự.

-Xử phạt: Đỗ Mạnh A 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

-Áp dụng: Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 - Bộ Luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Đỗ Mạnh A phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị M, vắng mặt người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Huy A1 vắng mặt. Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2020/HS-ST ngày 22/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:21/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;