TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ QUẢNG, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 21/2020/HSST NGÀY 21/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 21 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2020/TLST- HS ngày 01 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2020/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:
- Họ và tên: Lục Chí T (tên gọi khác: Không), sinh ngày: 20 tháng 6 năm 1998, tại xã T, huyện H, tỉnh Cao Bằng; Nơi ĐKHKTT: : Xóm N, xã L, huyện H, tỉnh Cao Bằng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc Tịch: Việt Nam; Con ông Lục Văn T (đã chết) và bà Riêu Thị N; Anh chị em ruột: Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 20/7/2020 Công an huyện hà Quảng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; Bị bắt ngày 30/6/2020 hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hà Quảng. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 30/6/2020, Tổ tuần tra Đồn biên phòng cửa khẩu S phối hợp với Công an huyện Hà Quảng và Chi cục Hải quan cửa khẩu S đang thực hiện nhiệm vụ tại khu vực xóm H, xã T, huyện H, qua kiểm tra phát hiện Lục Chí T cất giữ trong người 02 gói nhỏ chứa chất bột màu trắng ngà, trong đó tại túi áo ngực bên trái 01 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu vàng, túi áo ngực bên phải 01 gói nhỏ được gói bằng nilon màu xanh và giấy bạc màu vàng, giấy bạc màu tím than. Đối tượng Lục Chí T đã được đưa về Đồn biên phòng cửa khẩu S để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật (bút lục số: 01,02,03).
Ngày 01/7/2020 Đồn biên phòng cửa khẩu S đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lục Chí T tại xóm N, xã L, huyện H, tỉnh Cao Bằng không phát hiện thu giữ gì.
Kết quả cân xác định Khối lượng tang vật thu giữ của Lục Chí T là 0,36 gam (bút lục số: 04-06,21).
Tại kết luận giám định số 211/GĐMT, ngày 13/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: Mẫu chất gửi giám định là ma túy, loại ma túy là heroine (bút lục số: 20).
Qúa trình điều tra T khai nhận bản thân là đối tượng sử dụng ma túy, T thường xuống thành phố C mua ma túy về sử dụng. Khoảng 14 giờ ngày 30/6/2020, T từ nhà ở xóm N, xã L đi theo xe mô tô đến thành phố C để mua ma túy với một người đàn ông không biết họ tên, địa chỉ làm nghề xe ôm ở bến xe cũ T đã mua 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) được 01 gói heroine. Sau khi mua xong T đi ra bờ sông thành phố C lấy heroine một ít để sử dụng bằng hình thức chích sau đó T đi xe buýt về xã S và gọi người đến dón, khi đến xóm H, xã T, huyện H thì bị các lực lượng chức năng phát hiện và bắt quả tang (bút lục số: 34,35,36,41-46).
Về vật chứng của vụ án: 01 phong bì đã niêm phong bên trong chứa ma túy heroine mặt trước phong bì ghi “Vật chứng thu giữ của Lục Chí T - bắt ngày 30/6/2020”.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho T tại bến xe cũ thành phố C, không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể, do đó không đủ căn cứ xử lý trong vụ án này.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Quảng đã đề nghị truy tố bị cáo Lục Chí T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy’’ theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Cáo trạng số: 20/CT-VKSHQ ngày 01 tháng 10 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hà Quảng đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Hà Quảng để xét xử bị cáo Lục Chí T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy’’ theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu đều phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Lục Chí T từ 15 đến 18 tháng tù.
Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý vật chứng: 01 phong bì mặt trước đã niêm phong bên trong chứa ma túy heroine.trước phong bì ghi “Vật chứng thu giữ của Lục Chí T - bắt ngày 30/6/2020”; mặt sau có 04 hình dấu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Quảng và chữ ký các thành phần tham gia niêm phong và bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm trở về với cộng đồng trở thành người công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
{1} Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hà Quảng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Quảng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
{2} Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Ngày 30 tháng 6 năm 2020 bị cáo Lục Chí T đã có hành vi tàng trữ 0,36 gam heroine với mục đích sử dụng cho bản thân bị cáo ngoài ra không có mục đích nào khác. Hành vi của bị cáo đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.
Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Quảng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.
{3} Xét tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã tàng trữ 0,36 gam heroine để sử dụng khối lượng ma túy thuộc điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
{4} Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó bị cáo sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
{5} Xét về nhân thân bị cáo có nhân thân xấu, trước khi xét xử bị cáo đã có 01 tiền sự: Ngày 19/6/2020 bị Công an huyện Hà Quảng phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đến ngày 20/7/2020 Công an huyện Hà Quảng ra Quyết định xử phạt hành chính với hành vi trên, bị cáo đã nộp xong số tiền xử phạt là 1.500.000đ. Tuy bị cáo chưa bị bắt buộc phải đi cai nghiện tập trung, nhưng bị cáo không lấy việc bị lập biên bản xử lý hành chính làm bài học mà vẫn lao vào con đường phạm tội, để nhằm trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy của Đảng và Nhà nước ta cần phải cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội và làm gương cho kẻ khác.
{6} Về nguồn gốc số heroine thu giữ bị cáo khai mua với người đàn ông tại khu vực tại bến xe cũ thành phố C, hành vi mua bán đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải xử lý. Nhưng quá trình điều tra không xác định rõ được họ tên, địa chỉ cụ thể của đối tượng nên không có căn cứ xử lý ở vụ án này đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác.
{7} Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là hình phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Xét thấy, theo xác nhận của chính quyền địa phương gia đình bị cáo không thuộc hộ nghèo, cận nghèo năm 2020. Tuy nhiên xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, sống phụ thuộc vào mẹ chưa có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ.
{8} Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng các Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại, sau giám định 01 phong bì mặt trước đã niêm phong bên trong chứa ma túy heroine.trước phong bì ghi “Vật chứng thu giữ của Lục Chí T - bắt ngày 30/6/2020”; mặt sau có 04 hình dấu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Quảng và chữ ký các thành phần tham gia niêm phong.
{9} Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Lục Chí T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:
- Xử phạt: Bị cáo Lục Chí T 15 (Mười lăm) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 30 tháng 6 năm 2020).
Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng các Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại, sau giám định 01 phong bì mặt trước đã niêm phong bên trong chứa ma túy heroine.trước phong bì ghi “Vật chứng thu giữ của Lục Chí T - bắt ngày 30/6/2020”; mặt sau có 04 hình dấu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Quảng và chữ ký các thành phần tham gia niêm phong.
(Xác nhận vật chứng trên đã được Công an huyện Hà Quảng bàn giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Quảng hồi 09 giờ 45 phút ngày 01 tháng 10 năm 2020).
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Lục Chí T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), để sung quỹ Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Áp dụng vào các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 21/2020/HSST ngày 21/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 21/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hà Quảng - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/10/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về