Bản án 21/2020/HNGĐ-ST ngày 30/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 21/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 30 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình mở phiên tòa xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số 47/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Th, sinh năm 1989;

Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Phạm Minh T, sinh năm 1985;

Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt (lần thứ 2).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn chị Đỗ Thị Th trong đơn khởi kiện đề ngày 20/02/2020, bản tự khai ngày 04/5/2020, biên bản hòa giải ngày 25/6/2020 và tại phiên tòa trình bày:

Chị Đỗ Thị Th và anh Phạm Minh T kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 10/3/2009. Sau kết hôn vợ, chồng về chung sống tại nhà bố, mẹ anh T thuộc xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Cuộc sống hôn nhân của vợ, chồng hạnh phúc được khoảng 06 năm đến khoảng tháng 3/2016 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh T thường xuyên nhậu nhẹt rồi về nhà đánh đập vợ, con. Trong thời gian đó hai bên gia đình đã hòa giải động viên để vợ, chồng trở lại sống với nhau, tuy nhiên vợ, chồng không còn tình cảm nên không thể trở về sống với nhau được. Chị Th đã sống ly thân tại nhà bố, mẹ đẻ của chị từ tháng 3/2016 cho đến nay. Sau một thời gian ly thân chị Th xác định hiện tại tình cảm vợ, chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn anh T Về con chung: Nguyên đơn chị Th trình bày vợ, chồng có hai con chung là Phạm Thanh B, sinh ngày 17/6/2010 và Phạm Bảo A, sinh ngày 20/02/2014, hiện nay con đang còn nhỏ và đang ở với chị Th, nên chị Th có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi hai, con mỗi con 500.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Phạm Minh T tại bản khai ngày 25/6/2020 và biên bản hòa giải ngày 25/6/2020 trình bày: Việc kết hôn, chung sống vợ chồng, anh T cơ bản nhất trí như trình bày của chị Th. Theo anh T trong cuộc sống có đôi lúc tình cảm vợ chồng cũng có trục tặc, tuy nhiên đã là vợ chồng thì ai cũng phải có lúc mâu thuẫn. Anh T vẫn còn tình cảm với chị Th nên chị Th xin ly hôn anh T không chấp nhận ly hôn.

Về con chung: Anh T thừa nhận vợ chồng có hai con chung như chị Th trình bày; nguyện vọng nếu Tòa án cho vợ, chồng ly hôn thì anh cũng có nguyện vọng xin nuôi hai con, không yêu cầu chị Th cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Th xin ly hôn anh Phạm Minh T là tranh chấp về hôn nhân và gia đình về ly hôn, tranh chấp nuôi con, được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Toà án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình thụ lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật.

[2] Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Phạm Minh T có mặt, nhưng tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2, nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Như vậy, bị đơn đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được pháp luật quy định. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[3] Về hôn nhân: Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và trình bày của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa xác định được chị Th và anh T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 10/3/2009, nên hôn nhân của chị Th và anh T là hợp pháp.

[4] Về mâu thuẫn: Theo trình bày của nguyên đơn chị Th trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, thì cuộc sống vợ, chồng chung sống hạnh phúc được 06 năm thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân mâu thuẫn theo trình bày của chị Th do anh T thường xuyên uống rượu về nhà đánh đập, gây gỗ vợ con. Quá trình hòa giải anh T cũng cho rằng vợ, chồng cũng có mâu thuân nhưng không đến mức trầm trọng, anh T vẫn còn tình cảm với chị Th nên anh xin đoàn tụ để vợ chồng trở lại sống với nhau nuôi dạy con cái. Tại phiên tòa, chị Th xác định tình cảm vợ chồng không còn, giữ nguyên yêu cầu ly hôn anh T.

[5] Qua xem xét, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ, chồng giữa chị Th và anh T là đúng thực tế như chị Th trình bày, mâu thuẫn xảy ra thời gian dài không thể hàn gắn được, nguyên nhân do anh T thường xuyên uống rượu về nhà gây gỗ, đánh đập vợ, con. Chị Th và anh T đã ly thân nhau từ tháng 3/2016 cho đến nay; anh T mặc dù có nguyện vọng đoàn tụ vợ, chồng nhưng anh T không đến Tòa án để Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ, chứng tỏ anh cũng không tha thiết gì đến việc xây dựng hạnh phúc của vợ, chồng; vợ, chồng không quan tâm đến nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử qua xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Th, xử cho chị Th ly hôn anh T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[6] Về con chung: Chị Th và anh T thừa nhận có hai con chung là Phạm Thanh B, sinh ngày 17/6/2010 và Phạm Bảo A, sinh ngày 20/02/2014; cả chị Th và anh T đều có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung nếu vợ chồng ly hôn, chị Th yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi 02 con mỗi con 500.000 đồng/tháng; anh T xin nuôi hai con và không yêu cầu chị Th cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy, đối với hai con chung từ khi chị Th và anh T mâu thuẫn đều do chị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, hiện nay 02 cháu đang còn nhỏ cần sự chăm sóc của chị Th; anh T mặc dù có nguyện vọng nuôi con nhưng Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh T không đến Tòa án để giải quyết yêu cầu của anh chứng tỏ anh cũng không quan tâm đến yêu cầu của mình. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao cho chị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung Phạm Thanh B, sinh ngày 17/6/2010 và Phạm Bảo A, sinh ngày 20/02/2014 là phù hợp về điều kiện sống, học tập và phát triển của con chung; anh T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 02 con mỗi tháng 500.000 đồng cho mỗi con kể từ tháng 8/2020 cho đến khi con đủ 18 tuổi. Sau này vì quyền lợi của con chung các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[7] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[8] Về án phí: Nguyên đơn chị Đỗ Thị Th và phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm; bị đơn anh T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Đỗ Thị Th đối với anh Phạm Minh T.

1. Xử cho chị Đỗ Thị Th ly hôn anh Phạm Minh T.

2. Giao 02 con chung Phạm Thanh B, sinh ngày 17/6/2010 và Phạm Bảo A, sinh ngày 20/02/2014 cho chị Đỗ Thị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; anh Phạm Minh T phải cấp dưỡng nuôi 02 con, mỗi con 500.000 đồng/tháng kể từ tháng 8/2020 cho đến khi 02 con đủ 18 tuổi.

Anh Phạm Minh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con chung các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Nguyên đơn chị Đỗ Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình theo biên lai số AA/2017/0005984 ngày 24/02/2020 (Chị Đỗ Thị Th đã nộp đủ án phí). Bị đơn anh Phạm Minh T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 luật thi hành án dân sự;

thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/7/2020); bị đơn anh Phạm Minh Tân vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2020/HNGĐ-ST ngày 30/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:21/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;