Bản án 21/2020/HNGĐ-ST ngày 28/07/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG – TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 21/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 28 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phước Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 44/2020/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2020 về việc việc yêu cầu ly hôn và nuôi con chung"theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38A/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2020 giữa:

-Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1989; Địa chỉ: ấp T II, xã HP, huyện PL, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1977;Địa chỉ: ấp T II, xã HP, huyện PL, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị N và anh T vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 27/9/2019 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân:

Chị và anh Nguyễn Văn T chung sống với nhau vào năm 2016, hôn nhân là tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HP, huyện PL, tỉnh Bạc Liêu. Sau thời gian chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn được, vợ chồng đã ly thân với nhau từ đầu năm 2018 cho đến nay.

Về con chung:

Vợ chồng có với nhau 02 người con chung tên Nguyễn Gia T, sinh ngày 17/5/2016 và Nguyễn Gia T1, sinh ngày 29/01/2019 hiện chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị yêu cầu tiếp tục nuôi con và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung và nợ:

Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần vắng mặt không có lý do.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Long trình bày quan điểm:

+ Về tố tụng: Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với đương sự: từ khi tham gia tố tụng đến nay, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Đối với bị đơn Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do là vi phạm nghĩa vụ của bị đơn.

+ Về nội dung: Chị N và anh T chung sống với nhau vào năm 2016, hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, nên hôn nhân của chị N và anh T là hợp pháp. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẩn và ly thân từ năm 2018 cho đến nay, Tòa án đã triệu tập hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng anh T không đến điều này chứng tỏ anh T không có thiện chí đoàn tụ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N ly hôn với anh T theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Về con chung: Giao các người con chung là Nguyễn Gia T và Nguyễn Gia T1 cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng. Buộc anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng cho mỗi người con mỗi tháng là 745.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 7 năm 2020 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi, việc cấp dưỡng phải thi hành ngay; Về tài sản và nợ: Do chị N và anh T không yêu cầu nên không đặt ra xem xét; Về án phí chị N và anh T nộp theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; sau khi nghe ý kiến phát biểu đề xuất của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chị Nyêu cầu ly hôn vớianh T và anh Tcó địa chỉ cư trú tại ấp T II, xã HP, huyện PL, tỉnh Bạc Liêu nên căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu.

[2] Tại phiên tòa hôm nay chị N có đơn xin xét xử vắng mặt và được Tòa án chấp nhận, bị đơn là anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, do đó căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị N và anh T.

[3] Về hôn nhân:

Xét thấy, chị N và anh T chung sống với nhau vào năm 2016, hôn nhân được xây dựng trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, do vậy hôn nhân của anh, chị là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Nguyên nhân ly hôn theo chị N trình bày là do vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẩn đã ly thân từ năm 2018 cho đến nay, trong khoảng thời gian này mỗi người ở một nơi, không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Lời trình bày của chị N phù hợp với biên bản xác minh địa phương vào ngày 17/6/2020 và ý kiến của bà Trương Thị Hương là mẹ ruột của chị Nguyễn Thị N về nguyên nhân ly hôn. Mặc khác anh T đã được Tòa án triệu tập hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, điều này chứng tỏ anh T không có thiện chí đoàn tụ, xét thấy mâu thuẩn của vợ chồng là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, hạnh phúc hôn nhân không đạt được căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N được ly hôn với anh T.

[4] Về con chung:

Chị N và anh Tcó hai người con chung tênNguyễn Gia T, sinh ngày 17/5/2016 và Nguyễn Gia T1, sinh ngày 29/01/2019 hiện chị N đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị N có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi vợ chồng sống ly thân với nhau chị N là người trực tiếp nuôi con và đã đảm bảo được cuộc sống cho con chung, qua biên bản xác minh của địa phương ngày 17/6/2020 và biên bản xác minh của bà Trương Thị Hương là mẹ ruột của chị N xác định hiện tại chị N có điều kiện nuôi con nên cần chấp nhận yêu cầu của chị N, giao các con chung cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng. Anh T không trực tiếp nuôi con nhưng có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền cản trở.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con:

Theo quy định pháp luật, người không trực tiếp nuôi con, phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, trong vụ án này chị N là người trực tiếp nuôi con, anh T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, buộc anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng cho các con chung mỗi tháng cho mỗi người con là 745.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 7 năm 2020 cho đến khi các người con chung đủ 18 tuổi, việc cấp dưỡng phải được thi hành ngay.

[6] Về tài sản chung và nợ:

Chị N và anh T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết trong vụ án này, trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp thì được giải quyết thành vụ kiện chia tài sản sau ly hôn.

[7] Về án phí:

Buộc chị N nộp 300.000đ án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình. Chị N đã dự nộp 300.000đ tại biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004659 ngày 11/02/2020được chuyển thu án phí. Anh Nguyễn Văn T có nghĩa vụ nộp án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng.

[8] Với những phân tích trên xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và phù hợp quy định pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147,điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228;Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử :

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị N ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Tạm giao các người con chung tênNguyễn Gia T, sinh ngày 17/5/2016 và Nguyễn Gia T1, sinh ngày 29/01/2019 cho chị Nguyễn Thị N tiếp tục nuôi dưỡng.Anh Nguyễn Văn T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở.

Buộc anh Nguyễn Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng cho hai người con là Nguyễn Gia Thịnh, sinh ngày 17/5/2016 và Nguyễn Gia Thiện, sinh ngày 29/01/2019, mỗi tháng cho mỗi người con là 745.000 đồng (bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng), thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 7 năm 2020 cho đến khi các người con chung đủ 18 tuổi, việc cấp dưỡng phải được thi hành ngay.

3. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị N nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình. Chị N đã dự nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004659 ngày 11/02/2020được chuyển thu án phí. Anh Nguyễn Văn Túng có nghĩa vụ nộp án phi câp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Các đương sự nộp án phí tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phước Long.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trọng hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2020/HNGĐ-ST ngày 28/07/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:21/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;