Bản án 21/2020/HNGĐ-ST ngày 27/08/2020 về ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUY TIÊN - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 21/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 27 tháng 8 năm2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên xét xử sơ thẩm công khaivụ án thụ lý số 98/2020/TLST-HNGĐ ngày10 tháng 7 năm 2020về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2020/QĐXX-ST ngày 12 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: chị Chu Thị Th, sinh năm 1989; địa chỉ: tổ dân phố Du L, phường Châu Gi, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam, có mặt.

* Bị đơn:anh Nguyễn Công H, sinh năm 1984; tổ dân phố Du L, phường Châu Gi, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Chu Thị Th trình bầy: Chị và anh H đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 19/7/2008 tại Ủy ban nhân dân xã Châu Gi, huyện Duy T, tỉnh Hà Nam trên cơ sở tự nguyện.

Sau ngày cưới vợ chồng hòa thuận được khoảng 9 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H mải chơi, xa vào tệ nạn xã hội, kinh tế gia đình xa sút dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm không thể hàn gắn được và vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 đến nay không quan tâm gì đến nhau.Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin được ly hôn với anh H.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Nguyễn Công H trình bày: anh đăng ký kết hôn với chị Chu Thị Th trên cơ sở tự nguyện tại UBND xã Châu Gi ngày 19/7/2008.

Anh thừa nhận vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do anh mải chơi không quan tâm tới vợ con và gia đình bên cạnh đó còn do anh nghi ngờ vợ có quan hệ nam nữ không lành mạnh nên dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng và vợ chồng đã sống ly thân đến nay được khoảng hơn một năm, không quan tâm gì đến nhau. Nay chị Th xin ly hôn, vì không muốn các con chung phải khổ nên anh không đồng ý ly hôn, trường hợp chị Th kiên quyết thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Về con chung: Chị Th, anh H cùng trình bày vợ chồng có hai con chung là cháu Nguyễn Tiến D, sinh ngày 13/2/2009 và cháu Nguyễn Ý Thùy L sinh ngày 01/8/2013.Khi ly hôn chị Th xin nuôi 2 con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh H cũng xin nuôi cả hai con chung và không yêu cầu chị Th phải cấp dưỡng; trường hợp không được thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Về tài sản chung, công sức, công nợ: Các đương sự cùng không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị Chu Thị Th giữ nguyên quan điểm của mình. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án là đúng và đề nghị:xử ly hôn giữa chị Chu Thị Th và anh Nguyễn Công H; về con chung: Giao chị Th trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Ý Thùy L và giao anh Nguyễn Công H nuôi cháu Nguyễn Tiến D cho đến khi các cháu trưởng thành, tự lập được; chị Th, anh H không phải cấp dưỡng nuôi chung; về tài sản chung: không đặt ra giải quyết và tuyên án phí theo quy định.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm, sau khi thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt anh Nguyễn Công H tuy nhiên anh H có đơn xin giải quyết vắng mặt tại phiên tòa, HĐXX căn cứ điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh H.

[2]Về quan hệ hôn nhân:Chị Chu Thị Th và anh Nguyễn Công H kết hôn trên cơ sở tự nguyện được Uỷ ban nhân dân xã Châu Gi, huyện Duy T đăng ký kết hôn ngày 19/7/2008 là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo hộ.

Sau ngày cưới vợ chồng chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn là thực tế các bên đã thừa nhận, nguyên nhân do anh H mải chơi, không tu chí làm ăn và không quan tâm tới gia đình, vợ con nên dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được, vợ chồng đã sống ly thân từ khoảng năm 2019 đến nay không quan tâm gì đến nhau. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã tồn tại trong một quá trình mà không được cải thiện, nay chị Th kiên quyết xin ly hôn, xét yêu cầu của chị Th là có căn cứ cần chấp nhận là phù hợp thực tế và có căn cứ pháp luật.

[3]Về con chung:Vợ chồng có hai con chung là cháu Nguyễn Tiến D, sinh ngày 13/2/2009 và cháu Nguyễn Ý Thùy L sinh ngày 01/8/2013. Xét nguyện vọng nuôi con chung của các đương sự, để đảm bảo các điều kiện nuôi con cần giao chị Th trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Ý Thùy L và giao anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Tiến D. Chị Th, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4]Về tài sản chung, công nợ, công sức: Đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[5]Về án phí ly hôn sơ thẩm:chị Chu Thị Th phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điều 28; 35; 39; 147; 227; 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình:

- Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1.Xửly hôn giữa chị Chu Thị Th và anh Nguyễn Công H.

2. Về con chung: Giao chị Chu Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Ý Thùy L, sinh ngày 01/8/2013 và giao anh Nguyễn Công H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Tiến D sinh ngày 13/2/2009 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, trưởng thành, tự lập được. Chị Th, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Chu Thị Th, anh Nguyễn Công H được quyền thăm hỏi, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Chị Th, anh H và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh H, chị Th trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Chu Thị Th phải chịu 300.000đ. Chị Th được đối trừ đi số tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai số 0003272 ngày 10/7/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Duy Tiên.

Án xử công khai sơ thẩm; chị Chu Thị Th được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Nguyễn Công H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2020/HNGĐ-ST ngày 27/08/2020 về ly hôn, nuôi con

Số hiệu:21/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duy Tiên - Hà Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;