Bản án 21/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 21/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 20/2020/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2020 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Thanh U, sinh năm 1990 Địa chỉ: Thôn 1, xã Lộc Q, huyện B, tỉnh Lâm Đồng

- Bị đơn: Anh K’ L, sinh năm 1987 Nơi đăng ký HKTT: Tổ 13, thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

Địa chỉ: Tổ 15, thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

Chị U có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, anh K’ L vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 31/12/2019 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Vũ Thị Thanh U trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị U và anh K’ L quen biết nhau do học cùng phổ thông, có thời gian tìm hiểu khoảng 06-07 năm mới tiến tới hôn nhân, kết hôn và chung sống tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và được hai bên gia đình đồng ý. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng ngày 04/7/2019.

Sau khi kết hôn khoảng 03 tháng thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn được và ly thân cho đến nay. Chị U trình bày anh K’ L không thật thà trong công việc, tài chính. Các khoản nợ cá nhân của anh K’L phát sinh trước hôn nhân quá nhiều, vợ chồng đã trả được khoảng 150 triệu đồng. Nhưng sau đó chị U phát hiện anh K’L nợ nần ngày càng nhiều khoảng hơn 01 tỷ đồng, các chủ nợ đòi nợ liên tục, đe dọa về tinh thần của chị U. Anh K’ L có công việc làm Gara xe ô tô nhưng cũng không có tiền lo cho cuộc sống vợ chồng. Vợ chồng mất niềm tin, thường xuyên cãi vã nhau, ly thân đã lâu, phận ai nấy sống, không quan tâm chăm sóc nhau. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên chị U yêu cầu được ly hôn với anh K’ L.

Về con chung: Chị U trình bày quá trình chung sống chị và anh K’ L không có con chung nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Chị U trình bày chị và anh K’ L không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị U trình bày chị và anh K’ L không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết.

Tòa án nhân dân huyện B đã triệp tập hợp lệ anh K’ L nhiều lần để làm việc nhưng anh Luyền đều vắng mặt không có lý do nên không có lời khai nào.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 27/5/2020 nhưng không được vì lý do chị U có mặt, có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải vụ án nữa, anh K’ L vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt mà không có lý do.

Kết thúc phần tranh luận, Viện kiểm sát nhân dân huyện B tham gia phiên tòa nên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và về việc giải quyết vụ án như sau: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho Vũ Thị Thanh U và anh K’ L được ly hôn. Về con chung không có nên không giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không xem xét, về án phí đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

I. Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn chị Vũ Thị Thanh U có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn anh K’ L đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

II. Về nội dung vụ án:

{1} Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Thanh U và anh K’ L chung sống với nhau từ năm 2019, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và được hai bên gia đình đồng ý. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng ngày 04/7/2019. Đây là quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

Tuy nhiên thời gian chung sống với nhau chưa lâu thì đã phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn dẫn đến ngày 31/12/2019 chị U nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Chị U trình bày vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn vì anh K’ L không lo cho cuộc sống vợ chồng, phát sinh nợ nần quá nhiều nhưng chị U không biết. Mặc dù vợ chồng đã trả nợ hơn 150 triệu đồng nhưng nay anh K’ L tiếp tục nợ nần và bỏ đi không biết làm gì, ở đâu, chủ nợ thường xuyên đến đòi nợ làm ảnh hưởng đến đời sống và tinh thần của chị U. Vợ chồng chung sống chưa được bao lâu thì ly thân đến nay không còn quan tâm chăm sóc nhau, tình cảm vợ chồng không còn nên chị U yêu cầu được ly hôn với anh K’ L. Qua xác minh được biết đời sống hôn nhân của chị U và anh K’L phát sinh mâu thuẫn là có thật, không còn duy trì đời sống chung, vợ chồng không thể tiếp tục hàn gắn. Tại đơn yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn anh K’ L cũng thừa nhận vợ chồng không cùng quan niệm sống, mặc dù hai bên đã cố gắng, hai gia đình đã can thiệp nhưng không thể hòa hợp và đồng ý ly hôn nhưng không đến tòa án làm việc. Tòa án cũng có tiến hành hòa giải để cho vợ chồng về đoàn tụ, tiếp tục cuộc sống chung nhưng chị U có mặt, anh K’L vắng mặt nên hòa giải đoàn tụ không thành. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể tiếp tục kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị U vẫn kiên quyết yêu cầu ly hôn. Vì vậy căn cứ vào Điều 5, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử chị U và anh K’L được ly hôn là có căn cứ và đúng pháp luật.

{2} Về con chung: Xét lời khai của chị U thì quá trình chung sống chị U và anh K’L không có con chung nên HĐXX không đề cập đến

{3} Về tài sản chung: Chị U trình bày chị và anh K’ L không có tài sản chung và không có yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

{4} Về nợ chung: Chị U trình bày chị và anh K’ L không có nợ chung nên không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

{5} Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, áp dụng Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đây là vụ án không có giá ngạch, cần buộc nguyên đơn chị Vũ Thị Thanh U phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 235, Điều 266 Bộ Luật tố tụng dân sự; Điều 5, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, áp dụng Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Vũ Thị Thanh U đối với bị đơn anh K’ L về việc “Ly hôn”.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị Thanh U và anh K’ L được ly hôn.

2. Về án phí: Buộc chị Vũ Thị Thanh U phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị U đã nộp tại biên lai nộp tiền số AA/2016/0019564 ngày 26/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:21/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;