Bản án 21/2019/HS-ST ngày 29/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 21/2019/HS-ST NGÀY 29/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T; Sinh ngày: 25/02/1993; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 30/66A đường PPT, Phường C, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lâm Kim G và bà: Nguyễn Thị T; Có vợ: Là bà Nguyễn Thị Thu T và con: Có 02 người con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2014; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 22/6/2018. (có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Lê Huy L; Sinh năm: 1987; Thường trú: 115A đường PVK, Phường B, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 105/2 đường BT, Phường A, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

2. Ông Lê Ngọc L; Sinh năm: 1964; Trú tại: 105/2 đường BT, Phường A, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 10 giờ 45 phút ngày 22/6/2018, tại trước nhà số 994 đường HG, Phường L, Quận F, lực lượng trinh sát hình sự Công an Quận 6 phát hiện Lê Huy L đang điều khiển xe gắn máy biển số 59K1-827.92 chở Nguyễn Văn T có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và đã thu giữ trong túi quần phía sau bên trái của Tâm 01 bịch nylon bên trong chứa chất bột màu trắng (T khai đó là ma túy đá), nên đã giao T, L cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai: Do nghiện ma túy tổng hợp (ma túy đá), nên khoảng 02 giờ ngày 22/6/2018, T đón xe ôm qua khu vực đường Cây Sung, Phường 14, Quận 8 mua từ một người đàn ông tên H (không rõ lai lịch) 01 bịch ma túy đá giá 850.000 đồng. Đến khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, Lê Huy L gọi điện thoại cho T hỏi mua bịch ma túy giá 150.000 đồng, nhưng T trả lời không bán. Sau đó, T đã nhờ L chở đi công việc, L đồng ý rồi điều khiển xe gắn máy biển số 59K1-827.92 qua chở T chạy đến trước nhà số 994 đường HG thì bị phát hiện bắt giữ như nêu trên.

Lê Huy L khai cũng tương tự và xác nhận không biết Nguyễn Văn T cất giữ ma túy trong người.

Tại Kết luận giám định số: 1094/KLGĐ-H ngày 29 tháng 6 năm 2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Trần Ngọc Tuấn (người chứng kiến), Nguyễn Văn T và hình dấu Công an Phường 12, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9,6731g (chín phẩy sáu bảy ba một gam), loại Methamphetamine.

Đối với Lê Huy L, tuy có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nên Công an Quận 6 đã thông báo về địa phương để xử lý hành chính. Còn người đàn ông tên H bán ma túy cho Nguyễn Văn T, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 108/CT-VKS.Q6 ngày 12 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi mua bịch ma túy tổng hợp (loại ma túy đá) giá 850.000 đồng để dành sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn T như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 05 năm đến 06 năm tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Singtech, vỏ màu vàng.

Tịch thu, tiêu hủy 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1094/2018, có chữ ký của Giám định viên Trần Đình Hải, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, người làm chứng Trần Ngọc Tuấn và Nguyễn Văn T; 01 cân điện tử hiệu Amput (loại mini); 02 sim điện thoại số seri: 8984048000020108851 và 8984050517.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn T 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei 1: 354895/08/972048/1, số Imei 2: 354895/08/972049/9 và 01 sim điện thoại có số seri: 1171150032737.

Còn chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Luvias, sơn màu xanh, biển số 59K1- 827.92, Cơ quan điều tra đã xử lý trả ông Lê Ngọc L (cha của Lê Huy L), nên không đề nghị xử lý.

Lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Văn T nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản tạm giữ tang vật, Kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Lê Huy Lợi và của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Nguyễn Văn T đã cất giữ chất ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) để sử dụng và chất ma túy mà bị cáo cất giữ có khối lượng 9,6731 gam. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy» thuộc trường hợp «Chất ma túy ở thể rắn có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam» theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Nguyễn Văn T có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T là rất nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác , do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu, chưa có tiền án - tiền sự, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Văn T theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Việc xử lý vật chứng: Phương tiện mà bị cáo Nguyễn Văn T dùng vào việc phạm tội là 01 chiếc điện thoại di động hiệu Singtech, vỏ màu vàng, Hội đồng xét xử tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Riêng 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1094/2018, có chữ ký của Giám định viên Trần Đình Hải, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, người làm chứng Trần Ngọc Tuấn và Nguyễn Văn T; 01 cân điện tử hiệu Amput (loại mini); 02 sim điện thoại số seri: 8984048000020108851 và 8984050517, là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei 1: 354895/08/972048/1, số Imei 2: 354895/08/972049/9 (bên trong có 01 sim điện thoại số seri: 1171150032737) thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ căn cứ xác định bị cáo đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

(theo hai Phiếu nhập kho vật chứng số: 114/PNK ngày 19 tháng 7 năm 2018 và số: 147/PNK ngày 12 tháng 9 năm 2018 của Công an Quận 6 - BL46, 47) Đối với chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Luvias, sơn màu xanh, biển số 59K1-827.92 thu giữ của Lê Huy L, Cơ quan điều tra xác định là tài sản hợp pháp của ông Lê Ngọc L (cha của Lê Huy L), nên đã xử lý trả lại ông L (theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 24/8/2018 - BL111), do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[6] Đối với Lê Huy L, tuy có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng Viện kiểm sát xác định chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và Công an Quận 6 đã thông báo về địa phương để xử lý hành chính, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với người đàn ông tên Huy mà bị cáo Nguyễn Văn T khai bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/6/2018.

- Căn cứ khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn T nộp phạt 5.000.000 (năm triệu) đồng.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Singtech, vỏ màu vàng.

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1094/2018, có chữ ký của Giám định viên Trần Đình Hải, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, người làm chứng Trần Ngọc Tuấn và Nguyễn Văn T; 01 (một) cân điện tử hiệu Amput (loại mini); 02 (hai) sim điện thoại số seri: 8984048000020108851 và 8984050517.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei 1: 354895/08/972048/1, số Imei 2: 354895/08/972049/9; 01 (một) sim điện thoại có số seri: 1171150032737.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

342
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2019/HS-ST ngày 29/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;