Bản án 21/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 21/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 18/2019/TLST-HS ngày 01/02/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2019/QĐXXST-HS ngày 12/02/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Q, sinh năm 1982 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn P, xã L, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị N; có vợ là Nguyễn Thị T và 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2007; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 29/7/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng; ngày 17/10/2018 bị Công an huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; nhân thân: Ngày 23/03/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 06 tháng tù về tội:“Trộm cắp tài sản”, ngày 27/04/2015 bị Công an huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị bắt, tạm giữ ngày 22/11/2018, tạm giam từ ngày 28/11/2018 đến nay; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Trần Nam T, sinh năm 1979; trú tại: Thôn B, xã L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 22/11/2018, Nguyễn Văn Q điều khiển xe môtô BKS: 29V5-4911 từ nhà xuống xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam thì gặp một thanh niên mới quen tên T khoảng 26 tuổi (Q không biết địa chỉ cụ thể), trong lúc nói chuyện T nói với Q:“Chở xuống Phủ Lý lấy hàng chơi”, Q hiểu ý là đi mua ma túy để cùng sử dụng nên đồng ý rồi điều khiển xe môtô đi đến cây xăng dầu trên đường Quốc lộ 21A thuộc tổ 10, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý thì T bảo Q đứng đợi, còn T đi tiếp một lát sau quay lại đưa cho Q 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng nói:“Ông cầm lấy, hàng ở trong đấy”, biết bên trong vỏ bao thuốc lá có ma túy, Q cầm lấy đút vào trong túi áo khoác đang mặc, T lại nói:“Đứng đợi tôi đi mua xi lanh để cùng sử dụng” rồi bỏ đi. Ngay sau đó Q bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam phát hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Q tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, mở ra kiểm tra thấy 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng Q khai nhận đó là ma túy, cất giấu để sử dụng.

Vật chứng, tài sản thu giữ của Nguyễn Văn Q gồm: 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 xe máy nhãn hiệu HONDA, BKS: 29V5-4911 sơn màu đen, xám, bạc; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280; 01 đăng ký xe máy mang tên Chu Bích Hảo và 01 giấy CMND mang tên Nguyễn Văn Q.

Tại bản Kết luận giám định số 186/PC09-MT ngày 26/11/2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,098 gam, loại Heroine”.

Bản cáo trạng số 27/CT-VKSPL ngày 31/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Nguyễn Văn Q về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn Q, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Nguyễn Văn Q từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ ngày 22/11/2018, tại khu vực tổ 10, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Văn Q bị lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bắt giữ quả tang đang tàng trữ trái phép 0,098 gam Heroine, mục đích để sử dụng. Trước đó, ngày 17/10/2018 bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân xấu do bản thân là người nghiện ma túy, từng bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích), năm 2015 đã bị xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ pháp luật quy định.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo thành người có ích đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo bản thân nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (như phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Đối với người thanh niên tên T ở khu vực chùa Tân Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam do Nguyễn Văn Q khai là người đã đưa ma túy đưa cho bị cáo để sử dụng, do Cơ quan điều tra không xác định được đặc điểm nhân thân, địa chỉ của người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

+ Đối với chiếc xe máy BKS: 29V5-4911 cùng giấy đăng ký xe máy, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, được bị cáo sử dụng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên sẽ bị tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.

+ Đối với 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen và 01 giấy CMND, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến tội phạm nên sẽ trả lại cho bị cáo.

+ Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long là vật cấm tàng trữ và không có giá trị sử dụng sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/11/2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Q 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280, màu đen có số IMEI: 353298/05/866202/7 và 01(một) giấy chứng minh nhân dân số 168186561 mang tên Nguyễn Văn Q.

- Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước 01(một) chiếc xe máy đeo biển kiểm soát 29V5-4911, màu đen, xám, bạc, số khung: 309609, số máy; 0399618 và 01 (một) đăng ký môtô xe máy số 0114061 mang tên Chu Bích Hảo.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 186/PC09-MT có chữ ký, dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam và 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 01/02/2019.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Văn Q nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;