Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 21/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 27 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 183/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Ái L– sinh năm 1984

Địa chỉ: Số 55, đường Đ, Khóm M, Phường H, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Ngô Minh T, sinh năm 1986

Địa chỉ: Ấp G, xã H, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Trần Ái L trình bày:

- Về hôn nhân: Chị L và anh Ngô Minh T tự nguyện sống chung như vợ chồng từ năm 2010, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường H, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu ngày 21/02/2017. Quá trình chung sống không hòa hợp, thường xuyên mâu thuẩn, hiện tình cảm không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau. Nay tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh T.

- Về con chung: Quá trình chung sống, có 02 con chung tên Ngô Thị Lam X, sinh ngày 19/9/2011 và Ngô Quỳnh A, sinh ngày 31/10/2017. Con đang s ống cùng chị L. Khi ly hôn chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại biên bản lấy lời khai ngày 07/6/2019 bị đơn anh Ngô Minh T trình bày:

- Về hôn nhân: Anh T và chị Trần Ái L tự nguyện sống chung như vợ chồng từ năm 2010, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường H, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu ngày 21/02/2017. Cuộc sống vợ chồng cũng bình thường, không biết lý do vì sao chị L lại bỏ nhà về nhà cha mẹ ruột sống từ đầu năm 2019 đến nay. Anh T đồng ý ly hôn với chị Linh.

- Về con chung: Quá trình chung sống, có hai con chung tên Ngô Thị Lam X, sinh ngày 19/9/2011 và Ngô Quỳnh A, sinh ngày 31/10/2017. Con đang sống cùng chị L. Khi ly hôn đồng ý giao cháu A cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, không cấp dưỡng nuôi con, anh T yêu cầu được quyền nuôi bé X, không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung vụ án:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý cho đến phiên tòa xét xử sơ thẩm hôm nay, Tòa án đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Giải quyết đúng thẩm quyền, cấp, tống đạt các văn bản đúng quy định. Thành phần Hội đồng xét xử đúng quy định, không thuộc trường hợp phải thay đổi ai. Việc chấp hành pháp luật của đương sự đã thực hiện đầy đủ. Vì vậy, về mặt thủ tục tố tụng, Viện kiểm sát không có ý kiến hay kiến nghị gì.

- Về nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Trần Ái L và anh Ngô Minh T.

Về con chung: Giao con chung là cháu Ngô Thị Lam X, sinh ngày 19/9/2011 và Ngô Quỳnh A, sinh ngày 31/10/2017 cho chị Trần Ái L trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T được quyền thăm nom con chung, không ai được phép cản trở.

Anh T không cấp dưỡng nuôi con do chị L không yêu cầu.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Án phí: Chị Trần Ái L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án; quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát; sau khi thảo luận, nghị án; Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn chị Trần Ái L khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Ngô Minh T nên đây là tranh chấp về ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn anh T có địa chỉ cư trú tại thành phố B, tỉnh Bạc Liêu, nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Xét thấy chị Trần Ái L và anh Ngô Minh T có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Tòa án xét xử vắng mặt chị L, anh Tâm theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về hôn nhân: Chị Trần Ái L và anh Ngô Minh T tự nguyện chung sống như vợ chồng vào năm 2010, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường H, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu ngày 21/02/2017. Nên hôn nhân giữa chị L và anh T là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Theo quy định pháp luật, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình.

Nhưng chị L và anh T cùng xác định đã sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Chị L yêu cầu được ly hôn với anh T, anh T cũng đồng ý ly hôn với chị L.

Căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hôi đông xet xư công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị L và anh T.

[4] Về con chung: Chị L và anh T xác định quá trình chung sống, có hai con chung tên Ngô Thị Lam X, sinh ngày 19/9/2011 và Ngô Quỳnh A, sinh ngày 31/10/2017. Con đang sống cùng chị L. Chị L yêu cầu được nuôi dưỡng hai con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Anh T đồng ý giao cháu A cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, không cấp dưỡng nuôi con, anh T yêu cầu được quyền nuôi cháu X, không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

Khi ly hôn chị L và anh T đều có yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu X. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét về mọi mặt và quyền lợi, đảm bảo sự phát triển tâm sinh lý bình thường của con chưa thành niên.

Xét điều kiện nuôi con của chị L và anh T thấy rằng, chị L và anh T cùng xác định thu nhập của mình mỗi tháng ổn định, đủ khả năng để nuôi con.

Cháu X, cháu A đang sống ổn định cùng chị L, các cháu phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Hơn nữa, cháu X có nguyện vọng được sống cùng chị L. Vì vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở giao con chung là cháu X và cháu A cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, hiên chau X và cháu A đang sông cung chị L, cho nên chị L được quyền tiếp tục nuôi dưỡng các cháu.

Anh T được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được phép cản tr. Chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, cho nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự thống nhất xác định không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Chị Trần Ái L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 55; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Trần Ái L và anh Ngô Minh T.

2. Về con chung: Giao con chung là Ngô Thị Lam X, sinh ngày 19/9/2011 và Ngô Quỳnh A, sinh ngày 31/10/2017 cho chị Trần Ái L trực tiếp nuôi dưỡng. Cháu X, cháu A đang sống cùng chị L, cho nên chị L đươc tiếp tuc nuôi dư ỡng cháu X, cháu A.

Anh Ngô Minh T được quyền thăm nom con chung, không ai được phép cản trở. cầu.

Anh Ngô Minh T không cấp dưỡng nuôi con do chị Trần Ái L không yêu 3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự thống nhất xác định về tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về án phí: Án phí sơ thẩm hôn nhân gia đình chị Trần Ái L phải chịu 300.000 đồng. Chị L đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0000563 ngày 03/5/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu được chuyển thu án phí 300.000 đồng.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:21/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;