Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HỆN HÀ TRUNG - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 21/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại Hội trường Toà án nhân dân Hện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 83/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo quyết đinh đưa vụ án ra xét xử số: 24/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị Th - Sinh năm 1989

Địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá

2. Bị đơn: Anh Cao Văn H - Sinh năm 1988

Địa chỉ: Thôn K, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá

Chổ ở: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá

Tại phiên toà có mặt chị Th, vắng mặt anh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Ti đơn khởi kiện ngày 16/4/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Trương Thị Th trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Cao Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có tổ chức và được UBND xã Hà Long, Hện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 09/6/2009. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H thường xuyên cờ bạc, rượu chè về đánh đập vợ con, dẫn đến cuộc sống vợ chồng hay cải nhau. Chị đã nhiều lần kHên nhủ và tha thứ nhưng anh H vẫn không thay đổi. Do không chịu được nên chị và anh H đã bắt đầu sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay, từ đó đến nay vợ chồng sống không quan tâm đến nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn với anh H.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu: Cao Văn Ho, sinh ngày 23/12/2010; Cao Minh Ha, sinh ngày 17/9/2013.

Hiện nay hai cháu khỏe mạnh và đang ở với chị. Ly hôn chị Th đề nghị được nuôi trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 cháu, không đề nghị anh H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị và không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với anh Cao Văn H, sau khi thụ lý vụ án Toà án nhân dân Huyện Hà Trung đã giao thông báo thụ lý và giấy triệu tập cho anh H và anh H đã trực tiếp nhận các văn bản tố tụng. Nhưng anh H không đến làm việc và trình bày ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án.

Ngày 09/8/2019 Toà án nhân dân Huyện Hà Trung đã giao quyết định đưa vụ án ra xét xử, anh H đã nhận trực tiếp nhưng anh vẫn không đến tham gia phiên toà.

Toà án nhân dân Huyện Hà Trung đã tiến hành xác minh và làm việc tại xã Hà Long, nơi anh chị sinh sống, theo thông tin cung cấp thì được biết:

Chị Th và anh H là vợ chồng, có đăng ký kết hôn, trong quá trình chung sống vợ chồng không hoà thuận thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi vã nhau, thi thoảng anh H còn đánh chị Th. Nguyên nhân là do anh H chơi bời, hay bỏ nhà đi chơi vài ngày hoặc cả tuần mới về dẫn đến vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Chị Th và anh H hiện tại đã sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay và không còn quan tâm đến nhau, mâu thuẫn giữa chị Th và anh H đã tồn tại từ lâu nên khó có thể níu kéo, đoàn tụ được. Anh H hiện tại không có công việc ổn định, không biết anh làm nghề gì. Ngoài ra theo Công an xã Hà Long: Anh H chơi bời, tham gia các tổ chức xã hội đen không lành mạnh.

Tại phiên Toà, Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn của chị Th, xử cho ly hôn giữa chị Th và anh H, về con chung giao cháu Cao Văn Ho và cháu Cao Minh Ha cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng và anh H không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị Th.

Tại phiên tòa hôm nay chị Th giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên không thỏa thuận với nhau về giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Cao Văn H không có mặt tại phiên toà, Toà án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục và phiên toà cũng được hoãn lần thứ nhất. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 BLTTDS xét xử vắng mặt anh H.

[2] Về hôn nhân: Chị Trương Thị Th và anh Cao Văn H kết hôn tự nguyện, và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hà Long, Hện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá là hôn nhân hợp pháp. Theo chị Th mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2014, nguyên nhân là do anh H thường xuyên cờ bạc, rượu chè về đánh đập vợ con, dẫn đến cuộc sống vợ chồng căng thẳng, vợ chồng chị đã bắt đầu sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay và không quan tâm nhau. Đối với anh H không có mặt tại Toà án để làm việc, đây thể hiện anh không quan tâm và không còn tình cảm với chị Th.

Xét thấy chị Thưong thực sự không còn tình cảm với anh H, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã giao các văn bản tố tụng cho anh H nhưng anh không chấp hành theo yêu cầu của Toà án, khi Toà án mở phiên Toà anh cũng không có mặt. Đến nay chị Th vẫn tha thiết xin ly hôn, với lý do mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn được và vợ chồng sống ly thân không quan tâm đến nhau.

Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng phải có nghĩa vụ yêu Th, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây chị Th đã thực sự không còn tình cảm với anh H và anh H cũng không quan tâm đến tình cảm vợ chồng hay đánh chị Th. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị và căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình xử cho chị Th được ly hôn anh H là phù hợp.

[3] Về con: Vợ chồng có 02 con chung là cháu: Cao Văn Ho, sinh ngày 23/12/2010; Cao Minh Ha, sinh ngày 17/9/2013. Chị Th đã xuất trình bản sao giấy khai sinh của cháu Ha và cháu Ho và có ghi họ tên mẹ là Trương Thị Th và bố là Cao Văn H; Như vậy đủ cơ sở khẳng định cháu Ha và cháu Ho là con chung của chị Th và anh H.

Nay vợ chồng ly hôn, nguyện vọng của chị Th là muốn trực tiếp được nuôi dưỡng cả 02 cháu Ho và Ha.

Xét thấy nguyện vọng được nuôi con của chị là Ho toàn chính đáng. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên.

Hi đồng xét xử thấy rằng: Theo thông tin cung cấp của chính quyền nơi vợ chồng cư trú cho biết anh H hay đánh chị Th, chơi bời, hay bỏ nhà đi chơi vài ngày hoặc cả tuần mới về. Anh H hiện tại không có công việc ổn định, không biết anh làm nghề gì. Ngoài ra theo Công an xã Hà Long cho biết anh H chơi bời, tham gia các tổ chức xã hội đen không lành mạnh. Hơn nữa, hiện tại anh không có công việc ổn định. Nên việc giao con chung cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng là không đảm bảo cho sự phát triển về thể chất, tinh thần và tâm sinh lý, cũng như sinh hoạt của các cháu. Ngoài ra hai cháu là con trai cần sự chăm sóc của mẹ, từ khi vợ chồng sống ly thân hai cháu vẫn ở với chị Th và phát triển bình thường. Do vậy cần áp dụng Điều 81 và 82 Luật HN&GĐ giao cả 02 cháu Ha và cháu Ho cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dương nuôi con: Do chị Th không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con chung và không yêu cầu Toà án giải quyết. Nên Hội đồng xét xử không buộc anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Th.

[4] Về tài sản: Chị Th không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Trương Thị Th là nguyên đơn trong vụ án nên buộc chị Th phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trương Thị Th và anh Cao Văn H.

2. Về nuôi con chung: Công nhận vợ chồng có 02 con chung là:

- Cao Văn Ho - Sinh ngày 23 tháng 12 năm 2010;

- Cao Minh Ha - Sinh ngày 17 tháng 9 năm 2013.

2.1. Giao con chung Cao Văn Ho và Cao Minh Ha cho chị Trương Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Anh Cao Văn H không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Th.

2.3. Anh H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trương Thị Th phải chịu 300.000đ tin án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0000382 ngày 17/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự Hện Hà Trung. Chị Th đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6; 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Th, anh H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, đối với chị Th kể từ ngày tuyên án, đối với anh H kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:21/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;