Bản án 21/2018/HNGĐ-ST ngày 08/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÁNH LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 21/2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/05/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 05 năm 2018, tại Hội trường xử án Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 81/2018/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2018, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2018/QĐST-HNGĐ, ngày 20 tháng 4 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Quỳnh N, sinh năm 1986; (có mặt).

2. Bị đơn: Anh Hoàng Văn C, sinh năm 1985; (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt). Cùng trú địa chỉ: Thôn 2, xã ĐB, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn – chị Nguyễn Thị Quỳnh N yêu cầu:

Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh C tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã MT năm 2010. Nay chị N yêu cầu giải quyết ly hôn với anh C, bởi vì sau khi kết hôn vợ chồng chung sống không có hạnh phúc, nảy sinh nhiều mâu thuẫn, cải vả do bất đồng quan điểm; ngoài ra anh C không lo làm ăn, không có trách nhiệm và quan tâm với gia đình. Kể từ năm 2016 chị N và anh C sống ly thân cho đến nay. Nhận thấy bản thân không còn tình cảm và không thể duy trì mối quan hệ hôn nhân với anh C nên chị N đã làm đơn yêu cầu ly hôn.

- Quá trình chung sống, chị N và anh C có người con chung tên là Hoàng Yên Đ, sinh năm 2013. Khi ly hôn, chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi con cho đến khi thành niên và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn – anh Hoàng Văn C trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn:

Về quan hệ hôn nhân: Anh C và chị N tự nguyện kết hôn và có đăng ký tại UBND xã MT vào năm 2010. Sau khi kết hôn vợ chồng anh C, chị N về sinh sống với gia đình anh C tại xã ĐB; sống với nhau được thời gian ngắn thì vợ chồng nảy sinh bất đồng trong công việc làm ăn và nơi sinh sống, bản thân chị N muốn dọn ra sống riêng nhưng anh C không đồng ý vì phải sống chung để chăm lo cho cha mẹ già lớn tuổi dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm, cải vả, cuộc sống không hạnh phúc nên đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Trong thời gian dài sống ly thân nhưng vẫn không hàn gắn tình cảm vợ chồng được. Nay anh C đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị N nhưng vì điều kiện công việc không đến Tòa án để làm thủ tục ly hôn với chị N được nên anh C xin giải quyết vắng mặt.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, anh C và chị N có một người con chung tên là Hoàng Yên Đ, sinh năm 2013; Khi ly hôn thì anh C đồng ý nhường quyền nuôi con cho chị N.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh phát biểu ý kiến như sau:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã tuân thủ theo đúng các quy định về pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử.

- Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của BLTTDS về quyền và nghĩa vụ của đương sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị giải quyết cho chị N được ly hôn với anh C. Đề nghị giao cháu Hoàng Yên Đ, sinh năm 2013 cho chị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi thành niên; anh C không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng được quyền thăm nom, chăm sóc con, chị N không được ngăn cản.

Về án phí: Đề nghị chị N phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, sau khi nghe đương sự trình bày, nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, quan điểm giải quyết vụ án; sau khi thảo luận và nghị án. Hội đồng xét xử Toà án nhân dân huyện Tánh Linh nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn – anh Hoàng Văn C vắng mặt tại phiên Tòa nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Quỳnh N và anh Hoàng Văn C tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã MT vào năm 2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu nhưng sau đó nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm và cách sống lẫn nhau; từ đó thiếu sự quan tâm, chăm sóc, chia sẽ trong cuộc sống. Tại phiên Tòa hôm nay, chị N vẫn giữ yêu cầu được ly hôn với anh C. Riêng về phần anh C, tại biên bản lấy lời khai ngày 30/3/2018 (bút lục số 17), anh C thể hiện ý kiến đồng ý ly hôn với chị N vì hiện nay vợ chồng đã sống ly thân, ít liên lạc, quan tâm đến nhau. Tuy nhiên, anh C có đơn yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải và xin xét xử vắng mặt vì bận công việc; do đó Tòa án không thể ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành giữa chị N với anh C mà phải đưa vụ án ra xét xử công khai. Như vậy, tình trạng mâu thuẫn của vợ chồng chị N và anh C đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên cần xem xét xử cho chị N được ly hôn với anh C là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng: Trong thời gian chung sống, chị N và anh C có người con chung tên Hoàng Yên Đ, sinh năm 2013. Khi ly hôn, chị N yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con cho đến khi thành niên và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Thể hiện ý kiến về con chung tại bút lúc số 17, anh C đồng ý giao con chung cho chị N nuôi dưỡng chứ không có tranh chấp gì. Hội đồng xét xử thấy cần giao cho chị N được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục người con chung tên Hoàng Yên Đ, sinh năm 2013 cho đến khi thành niên; anh C không phải cấp dưỡng nuôi con cho chị N nhưng được quyền thăm nom, chăm sóc con; chị N không được ngăn cản là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị N và anh C đều không yêu cầu giải quyết nên không xét đến.

[5] Về án phí: Cần buộc chị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 35; các Điều 146, 147, 203; điểm b, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 56; Các Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Quỳnh N được ly hôn với anh Hoàng Văn C.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Quỳnh N được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục người con chung tên Hoàng Yên Đ, sinh năm 2013 cho đến khi thành niên. Anh Hoàng Văn C không phải cấp dưỡng nuôi con cho chị N nhưng được quyền thăm nom, chăm sóc con, chị N không được ngăn cản.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Quỳnh N phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn đã nộp theo biên lai số N 0012478, ngày 16/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tánh Linh. Chị N đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm. Án xử sơ thẩm, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (08/5/2018). Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định (đã giải thích quyền kháng cáo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2018/HNGĐ-ST ngày 08/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:21/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tánh Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;