Bản án 21/2018/HNGĐ-ST ngày 06/06/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 21/2018/HNGĐ-ST NGÀY 06/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 06 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng; xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 26/2018/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 01 năm 2018 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2018/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị C, sinh năm 1988 (Có mặt); địa chỉ: Số nhà xx ấp N, xã Đ, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Việt T, sinh năm 1978 (Vắng mặt); địa chỉ: Số nhà zz đường X, khóm K, phường Y, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 30/01/2018 (BL 01), Biên bản lấy lời khai ngày 07/3/2018 (BL 17) cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là chị Huỳnh Thị C trình bày:

Năm 2008, chị C kết hôn với anh Nguyễn Việt T và được Ủy ban nhân dân thị trấn V (Nay là phường Y, thị xã V) cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 16/6/2008. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại số nhà zz đường X, khóm K, phường Y, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

Đến năm 2015, chị C và anh T chuyển đi sinh sống tại số nhà xx ấp N, xã Đ, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Cuộc sống chung hạnh phúc được thời gian đầu, chị C và anh T đã có 01 con chung là cháu Nguyễn Ái X (Nữ), sinh ngày 16/11/2009. Do bất đồng quan điểm làm phát sinh mâu thuẫn, anh T thường ghen tuông vô cớ và có hành vi bạo lực gia đình làm cho tình cảm phai nhạt nên không còn hạnh phúc nữa. Từ giữa năm 2017, mâu thuẫn đã rất trầm trọng, không thể khắc phục được, anh T trở về sinh sống tại thị xã V và vợ chồng không còn sống chung với nhau; anh T cũng chỉ gọi điện thoại hỏi thăm và vài lần gửi tiền cho cháu X, không liên lạc với chị C. Nay, chị Huỳnh Thị C yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Việt T.

Về con chung: Do cháu X có nguyện vọng được sống cùng mẹ, chị C yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu X. Chị C có nghề và mở tiệm làm dịch vụ về tóc tại nhà, thu nhập ổn định khoảng 200.000 đồng/ngày nên đủ điều kiện nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con.

Về tài sản và nợ chung: Chị C và anh T tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Chứng cứ do chị C giao nộp là Giấy chứng nhận kết hôn; bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Sổ hộ khẩu, Giấy khai sinh của cháu X (BL 02-07), Giấy xác nhận kết quả học tập và rèn luyện đối với cháu X của của Ban Giám hiệu Trường Tiểu học Đ, huyện C (BL 18).

- Đối với bị đơn Nguyễn Việt T: Dù được tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, tại Thông báo đã thể hiện đầy đủ những tình tiết, sự kiện, tài liệu, yêu cầu khởi kiện của chị C nhưng anh T không phản đối, không có văn bản trình bày ý kiến và nguyện vọng của mình. Anh T vắng mặt không có lý do trong các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 07/3/2018, ngày 20/3/2018; Tòa án đã thông báo kết quả phiên họp trên cho anh T và đưa vụ án ra xét xử. Phiên tòa ngày 22/5/2018, bị đơn T vẫn vắng mặt và không giao nộp tài liệu, chứng cứ gì nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, tiếp tục đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

- Tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập được là Biên bản lấy lời khai của cháu Nguyễn Ái X (BL 22); Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân, nguyên nhân phát sinh tranh chấp, nguyện vọng và điều kiện của các đương sự (BL 23).

- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định chính xác quan hệ pháp luật tranh chấp; thu thập chứng cứ đầy đủ, đúng pháp luật; Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, đương sự đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị C, giải quyết cho chị C ly hôn với anh Nguyễn Việt T; giao cho chị C được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh T không phải cấp dưỡng cho con; không xem xét, giải quyết về tài sản và nợ chung do không có yêu cầu; quyết định nghĩa vụ chịu án phí đối với các đương sự, theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Huỳnh Thị C khởi kiện, yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Việt T và giải quyết quyền nuôi con chung. Yêu cầu của chị C được pháp luật điều chỉnh tại các Điều 51, Điều 56 và Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 (Sau đây gọi là Luật hôn nhân và gia đình); thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn Nguyễn Việt T đã được triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa, đều vắng mặt không có lý do nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt của mình. Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật; Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt bị đơn. [2] Về nội dung giải quyết:

- Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn và bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Sổ hộ khẩu, Giấy khai sinh của cháu X cũng như việc không phản đối của anh T và kết quả xác minh của Tòa án; đối chiếu với quy định tại điểm c Khoản 1, Khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử khẳng định lời trình bày của chị Huỳnh Thị C về việc kết hôn với anh Nguyễn Việt T, được Ủy ban nhân dân phường Y, thị xã V cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 16/6/2008 và vợ chồng đã có 01 con chung là sự thật. Vì vậy, giữa chị Huỳnh Thị C và anh Nguyễn Việt T đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp, quy định tại Khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.

Tuy nhiên, do bất đồng quan điểm làm phát sinh mâu thuẫn nên chị C yêu cầu ly hôn với anh T. Mặc dù Tòa án đã 02 lần mở phiên họp, hòa giải để phân tích, động viên cho vợ chồng hàn gắn đoàn tụ, cùng nhau nuôi dạy con chung nhưng anh Nguyễn Việt T đều vắng mặt. Như vậy, cùng với việc không phản đối yêu cầu ly hôn của chị C đã chứng tỏ anh T không có nguyện vọng đoàn tụ; vợ chồng không còn thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc gia đình nên chị Huỳnh Thị C với anh Nguyễn Việt T đã không còn tình nghĩa vợ chồng quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình.

Vì vậy, có cơ sở kết luận quan hệ hôn nhân của chị C với anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho chị C ly hôn với anh T.

- Tại thời điểm xét xử vụ án, cháu X đã trên 07 tuổi, phát triển bình thường về thể chất và trí tuệ; cháu X đang sống với chị C, được học tập ổn định, nhiều năm liền là học sinh giỏi (BL 18) và có nguyện vọng tiếp tục sống cùng mẹ (BL 22); như vậy, chị C đã thực hiện đúng nghĩa vụ và quyền của cha mẹ quy định tại Điều 69 của Luật hôn nhân và gia đình. Về phía anh T, từ khoảng 01 năm nay đã không có sự quan tâm, chăm lo cho cháu X đạt mức cần thiết; anh T đã vi phạm nghĩa vụ và quyền của cha mẹ như quy định của điều luật vừa viện dẫn trên. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt được tốt hơn và tránh sự xáo trộn nề nếp sinh hoạt, môi trường sống, học tập của cháu X thì cần căn cứ Điều 58, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình để giao cho chị C tiếp tục nuôi dưỡng con chung; đồng thời, ghi nhận ý chí tự nguyện của chị C về việc không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con.

- Nguyên đơn C tiếp tục khẳng định tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm: Chị C phải chịu 300.000 đồng theo điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV, Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Toàn bộ quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu là có căn cứ pháp lý và cơ sở thực tiễn như đã nhận định ở trên, Hội đồng xét xử cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đã nêu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 1 và Khoản 2 Điều 143, Khoản 3 Điều 144, Khoản 4 Điều 147, điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Huỳnh Thị C được ly hôn với anh Nguyễn Việt T.

2. Về quyền nuôi con chung: Giao cho chị Huỳnh Thị C được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Ái X (Nữ), sinh ngày 16/11/2009. Trong thời gian chị C nuôi con, không ai được quyền ngăn cản sự thăm nom, chăm sóc và giáo dục của cha mẹ đối với con chung.

Vì quyền lợi về mọi mặt của cháu X, các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ và mức cấp dưỡng cho con nếu có căn cứ và hợp pháp.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn khẳng định tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn Huỳnh Thị C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng, theo Biên lai số 0000744 ngày 30/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu. Chị C đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Chị Huỳnh Thị C có quyền kháng cáo đối với Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án; anh Nguyễn Việt T có quyền kháng cáo trong thời hạn nêu trên kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2018/HNGĐ-ST ngày 06/06/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:21/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;