Bản án 209/2022/HSST về tội môi giới mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 209/2022/HSST NGÀY 15/09/2022 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 15 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 208/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 208/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Thị H; sinh năm 1982 tại tỉnh Tuyên Quang; nơi cư trú: đội 1, xã V, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: tự do; trình độ học vấn: lớp 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông:

Phạm Văn Q và bà Trần Thị X; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ ngày 11-6- 2022, chuyển tạm giam ngày 17-6-2022; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 00 phút ngày 10-6-2022, Đặng Văn Ch, sinh năm 1985, trú tại xã M huyện M1 tỉnh Nam Định và Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1978, trú tại phường V thành phố N đi chơi cùng nhau rồi cùng nảy sinh ý định tìm gái bán dâm để mua dâm. Ch và Đ thống nhất mỗi người góp 2.000.0000 đồng để Ch cầm thanh toán cho gái bán dâm. Do quen biết Phạm Thị H là gái bán dâm nên Ch đã sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo của mình tên “Trung Trinh” liên hệ với tài khoản mạng xã hội Zalo của H tên “Anh Anh” đặt vấn đề mua dâm H và nhờ H tìm một gái bán dâm khác cho Đ mua dâm. H đồng ý và bảo Ch thuê nhà nghỉ rồi báo lại địa chỉ cho H. Ch và H không thỏa thuận giá tiền mua bán dâm cụ thể mà thống nhất số tiền mua dâm của cả hai người Ch sẽ đưa cho H để H sẽ trả cho gái bán dâm. Sau đó H đến phòng 301 nhà nghỉ Minh Ch, địa chỉ 108 Trần Nguyên Đán, phường Lộc Hòa, thành phố N gặp Vũ Thị Ng, sinh năm 1985, trú tại xã Y huyện Ch tỉnh Tuyên Quang đặt vấn đề môi giới cho Ng đi bán dâm thì Ng đồng ý. Cả hai không thỏa thuận giá tiền bán dâm cụ thể mà thống nhất khách mua dâm đưa bao nhiêu thì Ng cứ cầm.

Khong 22 giờ 40 phút cùng ngày, Ch và Đ đến nhà nghỉ Thanh Hằng, địa chỉ 7/6 Tr, phường L, thành phố N thuê phòng 402 cho Đ, phòng 404 cho Ch rồi nhắn tin thông báo địa chỉ, số phòng cho H. Khoảng 23 giờ cùng ngày, H và Ng đến nhà nghỉ Thanh Hằng gặp chủ nhà nghỉ là chị Lưu Thị Thu H, sinh năm 1978, trú tại 479B T, phường Tr, thành phố N xin lên phòng 402 và 404 gặp bạn. Chị Hằ đồng ý và không kiểm tra giấy tờ tùy thân của H, Ng. Sau đó, H, Ng tự lấy mỗi người 01 bao cao su để sẵn trên mặt quầy lễ tân rồi đi lên tầng 4. H vào phòng 404 gặp Ch nhận 4.000.000 đồng rồi mua bán dâm với nhau. Ng vào phòng 402 gặp Đ rồi mua bán dâm với nhau mà chưa trao đổi cụ thể về số tiền mua bán dâm và hình thức thanh toán tiền. Đến khoảng 23 giờ 45 phút cùng ngày, khi H với Ch, Ng với Đ đang mua bán dâm thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an thành phố N kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ của Ch 01 vỏ bao cao su, thu giữ của Đ 01 vỏ bao cao su đều đã qua sử dụng, thu giữ của H số tiền 4.000.000 đồng và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu vàng đã dùng để liên hệ môi giới mại dâm.

Ti Cơ quan Cảnh sát điều tra, Phạm Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi như nêu trên. Nguyễn Văn Đ và Vũ Thị Ng đã khai nhận toàn bộ hành vi được H môi giới để mua, bán dâm với nhau. Đối với vật chứng đã thu giữ trong vụ án được chuyển giao và bảo quản theo đúng quy định của pháp luật.

Bản Cáo trạng số 212/CT-VKSTPNĐ ngày 24-8-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Phạm Thị H về tội: “Môi giới mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà: Bị cáo Phạm Thị H khai: Ngày 10-6-2022 bị cáo có hành vi bán dâm cho Đặng Văn Ch và môi giới cho Vũ Thị Ng bán dâm cho Nguyễn Văn Đ. Bị cáo nhận từ Đặng Văn Ch số tiền là 4.000.000 đồng là tiền bị cáo và Ng bán dâm cho Ch, Đ và tiền bị cáo hưởng lợi từ việc môi giới cho Ng bán dâm cho Đ.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 328, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tuyên bố bị cáo Phạm Thị H phạm tội “Môi giới mại dâm”; xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi, trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo nếu bị cáo không bị giam giữ trong vụ án khác; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị H không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ lời khai của bị cáo Phạm Thị H, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng thời gian từ 22 giờ đến 23 giờ 45 phút ngày 10-6- 2022, Phạm Thị H đã có hành vi làm trung gian dẫn dắt cho Vũ Thị Ng bán dâm cho Nguyễn Văn Đ tại phòng 402 nhà nghỉ Thanh Hằng ở 7/6 Trần Nguyên Đán phường Lộc Hòa thành phố N tỉnh Nam Định. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo đã xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng; lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Môi giới mại dâm” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, danh dự, nhân phẩm của con người, là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tội phạm. Bị cáo không có tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt đối với bị cáo, tuy nhiên xét bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; do đó, căn cứ quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo cũng có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm Ch. Bị cáo đang bị tạm giam, do đó căn cứ vào Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo nếu bị cáo không bị giam giữ trong vụ án khác.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Đối với hành vi mua, bán dâm của Đặng Văn Ch, Nguyễn Văn Đ, Vũ Thị Ng; hành vi không thực hiện đầy đủ các quy định của ngành nghề kinh doanh có điều kiện của Lưu Thị Thu Hằng là chủ nhà nghỉ Thanh Hằng để xảy ra hoạt động mại dâm đều không cấu thành tội phạm nên Công an thành phố N đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: 02 vỏ bao cao su đã qua sử dụng không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy; 01 điện thoại di động Iphone 6s Plus thu giữ của bị cáo H là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội, số tiền 4.000.000 đồng là tài sản do bị cáo phạm tội mà có và thu được từ giao dịch bất hợp pháp nên tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo Phạm Thị H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 328, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 328, Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thị H phạm tội “Môi giới mại dâm”.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị H 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm 06 (sáu) tháng kể từ ngày tuyên án (bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11-6-2022 đến ngày 15-9-2022). Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo nếu bị cáo không bị giam giữ trong vụ án khác.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lợi, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp bị cáo Phạm Thị H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 thì Tòa án có thể buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Biện pháp tư pháp: Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 4.000.000 đồng và chiếc điện thoại di động Iphone 6s Plus; tịch thu, tiêu hủy 02 vỏ bao cao su; (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 29- 8-2022 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).

3. Án phí: Bị cáo Phạm Thị H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

376
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 209/2022/HSST về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:209/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;