Bản án 207/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 207/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 210/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 222/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Trần Minh Th, sinh năm 1992; nơi sinh: An Giang; thường trú: Ấp Mỹ Hòa, xã Mỹ Đức, huyện C, tỉnh A; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá:

00/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Viên và bà Nguyễn Thị Tròn; có vợ tên Nguyễn Thị Thoại M và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt ngày 13/3/2019, sau đó chuyển sang tạm giữ, tạm giam cho đến nay. Có mặt

2. Nguyễn Thị Thoại M, sinh năm 1996; nơi sinh: Đồng Tháp; thường trú: Ấp Phước Tiên, xã Thông Bình, huyện T, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con Nguyễn Văn Hùng và bà Đinh Thị Thùy; có chồng tên Trần Minh Th và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt ngày 13/3/2019, sau đó chuyển sang tạm giữ, tạm giam cho đến nay. Có mặt

3. Đặng Văn P, sinh năm 1998; nơi sinh: Đồng Tháp; thường trú: Ấp Tân Hòa Thuận, xã Tân Hội, thị xã H, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn Nút và bà Nguyễn Thị Bì; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt ngày 13/3/2019, sau đó chuyển sang tạm giữ, tạm giam cho đến nay. Có mặt

4. Nguyễn Văn T, sinh năm 1997; nơi sinh: Đồng Tháp; thường trú: Ấp 2, xã Thường Phước 1, huyện H, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 00/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Em và bà Hà Thị Lý; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt ngày 13/3/2019, sau đó chuyển sang tạm giữ, tạm giam cho đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quán đến vụ án: Ông Trương Quốc D, sinh năm 1985, địa chỉ: Số 111, ấp Đông Phước, xã T, huyện T, tỉnh K. Vắng mặt

- Người làm chứng: Ông Lê Hoàng Vinh, ông Lâm Văn Xuyến.Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Minh Th và Nguyễn Thị Thoại M có mối quan hệ là vợ chồng. Th và M có mối quan hệ quen biết với Đặng Văn P, Nguyễn Văn T, Lê Hoàng Vinh và Lâm Văn Xuyên. Xuyên ở cùng với Th và M tại căn nhà do Th thuê thuộc Tổ 3, khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Khong 16 giờ ngày 12/3/2019, Th, M, Xuyên, P và T cùng nhau tổ chức uống bia tại nhà do Th thuê. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Vinh đến nhà Th để trả số tiền 3.500.000 đồng, đây là tiền mà Vinh đã mua thiếu ma túy của Th nhiều lần trước đó. Sau khi Vinh trả tiền xong, Th rủ Vinh cùng ngồi uống bia với tất cả mọi người, Vinh đồng ý. Trong lúc uống bia, Th lấy số tiền 3.000.000 đồng đưa cho P, đồng thời Th nói với P và T đi đến khu vực chợ Tân Hiệp thuộc khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để gặp Quế (không rõ lai lịch là người mà Th đã mua ma túy nhiều lần trước đó) để đưa 3.000.000 đồng cho Quế và lấy ma túy về cho Th, trong đó số tiền 2.000.000 đồng đưa cho Quế mượn, số tiền mua ma túy là 1.900.000 đồng, Th trả trước 1.000.000 đồng, còn thiếu Quế số tiền 900.000 đồng. Lúc này, P điều khiển xe mô tô biển số 68S1-321.42 chở T đến khu vực chợ Tân Hiệp. Tại đây, P đưa cho T số tiền 3.000.000 đồng để T đưa tiền cho Quế. Sau khi nhận được tiền, Quế đưa cho T một bịch nylon bên trong chứa ma túy, T cất giấu vào túi quần, sau đó P chở T về nhà của Th. Khi về đến nhà của Th, T đưa bịch nylon bên trong chưa ma túy cho Th. Th cất giấu vào túi quần sau đó tất cả cùng ngồi uống bia tiếp. Sau khi uống bia xong, Th lấy một ít ma túy ra cho vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy để Th, M, Xuyên, P, T, Vinh cùng sử dụng, riêng Xuyên sau khi uống bia xong nằm ngủ nên không sử dụng ma túy. Khi sử dụng ma túy xong, Th và M cùng phân chia ma túy vào 20 ống hút nhựa hàn kín hai đầu và 01 ống hút nhựa hàn kín một đầu có chứa ma túy bên trong mục đích để bán, sau đó Th để trên chiếc ghế gỗ ở góc nhà, tiếp đến tất cả ngồi trong nhà của Th chơi và nói chuyện.

Đến khoảng 21 giờ 30 nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại nhà của Th có dấu hiệu nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy. Công an phường Tân Hiệp phối hợp cùng với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã Tân Uyên tiến hành kiểm tra nhà của Th, phát hiện 20 ống hút nhựa hàn kín hai đầu và 01 ống hút nhựa hàn kín một đầu có chứa ma túy bên trong đang để trên chiếc ghế gỗ ở góc nhà, lực lượng công an tiến hành niêm phong số ma túy nêu trên và mời Th, M, P và T về Công an phường Tân Hiệp làm việc. Tại công an phường Tân Hiệp, Th, M, P và T cùng khai nhận hành vi mua ma túy cất giấu nhằm mục đích bán cho người khác. Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã Tân Uyên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Minh Th, Nguyễn Thị Thoại M, Đặng Văn P, Nguyễn Văn T và thu giữ vật chứng gồm: 01 đoạn ống hút hàn kín một đầu, bên trong chứa tinh thể màu trắng; 20 đoạn ống hút hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô biển số: 68S1-321.42; Số máy: VTH152FMH-7000810; Số khung: RRHWCH0RH6A000810; 01 bộ dụng cụ tự chế dùng để sử dụng ma túy. Ngoài ra Công an phường Tân Hiệp tiến hành tạm giữ đồ vật, tài liệu liên quan gồm: 01 chứng minh nhân dân mang tên Đặng Văn P.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: Trần Minh Th bỏ tiền mua ma túy để cho M, T và P bán ma túy cho các con nghiện, Th bán hoặc cho T và P sử dụng ma túy, Th trực tiếp bán ma túy nhiều lần cho Đặng Văn P, Nguyễn Văn T, Lâm Văn Xuyên, Lê Hoàng Vinh và một số đối tượng không rõ lai lịch với giá tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng. Nguyễn Thị Thoại M có hành vi bán ma túy nhiều lần cho Đặng Văn P, Nguyễn Văn T, Lâm Văn Xuyên, Lê Hoàng Vinh với giá tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng. Đặng Văn P có hành vi nhiều lần nhận ma túy của Trần Minh Th và Nguyễn Thị Thoại M để đi giao ma túy cho Lâm Văn Xuyên, Lê Hoàng Vinh và nhận tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đem về đưa lại cho Th và M. Nguyễn Văn T có hành vi hai lần nhận ma túy của Trần Minh Th để đi giao cho những người khác không rõ lai lịch và nhận tiền mỗi lần 200.000 đồng đem về đưa lại cho Th.

Tại kết luận giám định số 237/MT-PC09 ngày 21 tháng 3 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Tinh thể màu trắng trong 01 đoạn ống hút hàn kín một đầu, khối lượng 0,0477 gam (M1); tinh thể màu trắng trong 20 đoạn ống hút hàn kín, khối lượng 1,9864 gam (M2) là ma túy, loại Methamphetamine.

Đi với xe mô tô biển số 68S1-321.42; Số máy: VTH152FMH-7000810; Số khung: RRHWCH0RH6A000810. Kết quả điều tra xác định xe mô tô trên do ông Trương Quốc Dũng, (sinh năm: 1985, HKTT: số 111, ấp Đông Phước, xã Thạnh Đông A, huyện Tân Hiệp, Kiên Giang) đứng tên trong Giấy chứng nhận đăng ký xe. Ông Dũng khai: Vào năm 2006 bán cho một người không rõ lai lịch, việc mua bán không làm thủ tục sang tên theo quy định. Bị can Trần Minh Th khai: Vào năm 2018 mua xe mô tô trên để sử dụng, việc mua bán cũng không làm thủ tục sang tên theo quy định. Kết quả tra cứu xe mô tô này không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng.

Đi với đối tượng tên Quế (không rõ tên, địa chỉ) có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Trần Minh Th tại khu vực chợ Tân Hiệp thuộc khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, do chưa xác định được nhân thân, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau.

Đi với Lê Hoàng Vinh, Lâm Văn Xuyên. Qua điều tra đã xác định không liên quan đến việc mua bán ma túy của Trần Minh Th, Nguyễn Thị Thoại M, Đặng Văn P, Nguyễn Văn T. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên không đề cập xử lý.

Cáo trạng số 221/CT-VKS.TU ngày 06/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên đã truy tố các bị cáo Trần Minh Th, Nguyễn Thị Thoại M, Đặng Văn P và Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ Luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Trần Minh Th từ 10 năm đến 11 năm tù.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thoại M từ 8 năm đến 9 năm tù.

- Xử phạt bị cáo Đặng Văn P từ 8 năm đến 9 năm tù.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 8 năm đến 9 năm tù.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với chất ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định, có khối lượng 1,6629gam là vật chứng của vụ án, thuộc diện Nhà nước cấm lưu hành và bộ dụng cụ tự chế dùng để sử dụng ma tuý đá, không có giá trị sử dụng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đi với 01 xe mô tô biển số 68S1-321.42, do bị cáo Th mua nhưng chưa làm thủ tục sang tên và sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đi với 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đặng Văn P, là giấy tờ cá nhân của bị cáo, không liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị trả lại cho bị cáo P.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố, lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm về làm công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không khiếu nại gì đối với các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên toà, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó đủ cơ sở xác định: Vào khoảng cuối tháng 12/2018 đến ngày 12/3/2019, tại Tổ 3, khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Trần Minh Th, Nguyễn Thị Thoại M có hành vi nhiều lần mua bán trái phép chất ma túy cho Đặng Văn P, Nguyễn Văn T, Lâm Văn Xuyên, Lê Hoàng Vinh tại nhà của Th với số tiền bán ma túy từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng; Đặng Văn P nhiều lần nhận ma túy từ Trần Minh Th và Nguyễn Thị Thoại M để giao ma túy cho Lâm Văn Xuyên và Lê Hoàng Vinh và một số đối tượng nghiện ma túy khác không rõ nhân thân với số tiền bán từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng; Nguyễn Văn T đã hai lần nhận ma túy từ Trần Minh Th và Nguyễn Thị Thoại M để giao ma túy cho các đối tượng nghiện ma túy không rõ nhân thân với số tiền bán mỗi lần là 200.000 đồng. Tại thời điểm bị bắt quả tang, Trần Minh Th, Nguyễn Thị Thoại M, Đặng Văn P, Nguyễn Văn T đang cất giấu số ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 2,0341 gam nhằm mục đích bán cho các đối tượng nghiện ma túy, thì bị phát hiện bắt quả tang. Vì vậy, hành vi mà các bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố cũng như luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi mà các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy. Hiện nay, tình hình mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy đang diễn biến phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm hình sự khác, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi chính là có sự tiếp tay của các bị cáo. Do đó, để có tác dụng giáo dục các bị cáo ý Th tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Trong vụ án có tính chất đồng phạm nhưng giản đơn, bị cáo Th là người chủ động trong việc rủ rê các bị cáo khác cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tham gia thực hiện hành vi phạm tội của từng bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo có T độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo là quá nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức hình phạt thấp hơn so với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với các bị cáo. Để các bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta mà yên tâm cải tạo, sớm trở về tái hòa nhập, làm người công dân có ích cho xã hội.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đối với chất ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định, có khối lượng 1,6629gam là vật chứng của vụ án, thuộc diện Nhà nước cấm lưu hành và bộ dụng cụ tự chế dùng để sử dụng ma tuý đá, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô (kiểu Wave) biển số 68S1-321.42, Số máy: VTH152FMH-7000810; Số khung: RRHWCH0RH6A000810 do bị cáo Th mua nhưng chưa làm thủ tục sang tên và sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Đặng Văn P, là giấy tờ cá nhân của bị cáo, không liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo P.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trần Minh Th, Nguyễn Thị Thoại M, Đặng Văn P, Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

1. Về hình phạt:

1.1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Minh Th 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/3/2019.

1.2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thoại M 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/3/2019.

1.3. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn P 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/3/2019.

1.4. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/3/2019.

2. Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự:

- Tịch tiêu huỷ 01 bì thư được niêm phong, bên ngoài có ký hiệu 237/PC09, có chữ ký của người bị bắt Nguyễn Thị Thoại M, Đặng Văn P, dấu vân tay của Trần Minh Th, Nguyễn Văn T, chữ ký của người chứng kiến Lê Hoàng Vinh, Lâm Văn Xuyên, cán bộ niêm phong Dương Hữu Hiệp, Hồ Quốc An (Phó Trưởng Công an phường), hình dấu mộc đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa Methamphetamine theo kết luận giám định số 237/MT-PC09 ngày 21/3/2019 của Phòng KTHS Công an tỉnh Bình Dương; 01 bộ dụng cụ tự chế dùng để sử dụng ma túy đá.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô (kiểu Wave), biển số 68S1-321.42 số máy VTH152FMH-7000810, số khung RRHWCH0RH6AD00810.

- Trả lại cho bị cáo Đặng Văn P Giấy chứng minh nhân dân mang tên Đặng Văn P.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/11/2019 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội:

Buộc các bị cáo Trần Minh Th, Nguyễn Thị Thoại M, Đặng Văn P, Nguyễn Văn T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 207/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:207/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;