TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 204/2017/HSST NGÀY 07/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07/9/2017 Tại trụ Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 205/2017/HSST ngày 15 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:
Họ tên: Lò Văn B - Tên gọi khác: Không;
Sinh năm: 1986 tại Điện Biên
Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Đội 5, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên
Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam;
Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng. Trình độ học vấn:10/12
Con ông: Lò Văn O, sinh năm 1962
Con bà: Lò Thị H, sinh năm 1962. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo có vợ: Quàng Thị T, sinh năm 1986. Bị cáo có 01 con, sinh năm 2006.
Gia đình bị cáo có 04 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03/6/2017 cho đến nay có mặt tại phiên toà.
NHẬN THẤY
Bị cáo bị VKSND huyện Đ truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 15 giờ ngày 03/6/2017, Lò Văn B đi bộ đến đầu đội 5, xã T, huyện Đ gặp và mua được một gói hêrôin được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng và 01 viên Methamphetamine của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 30 tuổi không biết tên và địa chỉ với giá 100.000đ, mục đích đem về sử dụng. Sau khi mua được ma túy B cầm về nhà rồi chia gói hêrôin thành 02 gói nhỏ. Hồi 15 giờ 30 phút cùng ngày khi B cầm 02 gói hêrôin cùng 01 viên Methamphetamine trên tay phải chuẩn bị sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện Đ phối hợp với công an xã T vào nhà phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật chứng là 01 gói hêrôin và 01 viên Methamphetamine.Tại biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng ngày 03/6/2017 đã xác định: gói chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn B có trọng lượng là 0,23 gam; 01 viên Methamphetamine có trọng lượng 0,09 gam.
Tại bản kết luận giám định số 529/GĐ-PC54 ngày 30/6/2017 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn B là chất ma túy loại hêrôin. Mẫu viên nén màu hồng gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn B là chất ma túy loại Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số 138/QĐ-VKS-HS ngày 14/8/2017; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Lò Văn B về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1Điều 194/BLHS.
Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 194/BLHS; Điểm p Khoản 1 Điều 46/Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; Khoản 3 Điều 7/BLHS năm 2015; Khoản 1 Điều 249/Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lò Văn B từ 24 đến 30 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 76/BLTTHS về xử lý vật chứng của vụ án. Áp dụng Điều 99/BLTTHS và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Đ,không có ý kiến tranh luận.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo;
XÉT THẤY
Tại phiên toà hôm nay bị cáo Lò Văn B khai nhận: Ngày 03/6/2017, Lò Văn B đi bộ đến đầu đội 5, xã T, huyện Đ gặp và mua được một gói hêrôin và 01 viên Methamphetamine của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 30 tuổi không biết tên và địa chỉ với giá 100.000đ, mục đích đem về sử dụng. Sau khi mua được B cầm về nhà rồi chia gói hêrôin thành 02 gói nhỏ. Hồi 15 giờ 30 phút cùng ngày khi B cầm 02 gói hêrôin cùng 01 viên Methamphetamine trên tay phải chuẩn bị sử dụng thì bi tổ công tác Công an huyện Đ phối hợp với công an xã T vào nhà phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật chứng là 01 gói hêrôin và 01 viên Methamphetamine là hoàn toàn đúng sự thật.
Vật chứng thu giữ của bị cáo B gồm 01 gói hêrôin đã được cân xác định trọng lượng là 0,23 gam, 01 viên Methamphetamine có trọng lượng 0,09 gam. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và vật chứng của vụ án được ghi tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng.
Với hành vi tàng trữ 0,23 gam hêrôin và 0,09 gam Methamphetamine trên người mục đích để sử dụng của bị cáo sau khi quy đổi thì tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của hai chất ma túy so với mức định lượng tối thiểu ở khoản 2 Điều 194 là dưới 100% nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù, nhưng theo quy định tại Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015 thì hành vi trên có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù, vì vậy đây là một quy định có lợi cho người phạm tội được liệt kê tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015.
Mặc dù Bộ luật hình sự năm 2015 đã bị lùi hiệu lực thi hành nhưng theo quy định của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội thì trên những quy định có lợi cho người phạm tội tại Khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 vẫn được áp dụng. Vì vậy, HĐXX căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về các quy định có lợi cho người phạm tội để xem xét áp dụng mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.
Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt mà pháp luật quy định do hành vi phạm tội của mình đã gây ra.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, tiếp tay cho những kẻ buôn bán ma tuý hoạt động, ảnh hưởng đến trật tự trị an trong xã hội. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo cho thấy. Sinh ra và lớn lên tại huyện Đ, học hết lớp 10/12 bỏ học ở nhà làm ruộng, sử dụng ma túy từ năm 2011. Ngày 22/10/2002 bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 24 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" đến ngày 05/4/2014 chấp hành án xong trở về địa phương. Bản án này đã được xóa án tích. Ngày 06/3/2017 phạm tội trong vụ án này. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46/BLHS. HĐXX xét thấy mặc dù bản án năm 2012 đã được xóa án tích nhưng bị cáo có nhân thân xấu. Hơn nữa bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo và có thời gian cai nghiện để bị cáo cải sửa lỗi lầm của mình trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 194/BLHS. Nhưng xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn lại là đối tượng nghiện ma túy, nên không có khả năng thi hành vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Xét đề nghị của đại diện VKS là phù hợp nên HĐXX chấp nhận.
Căn cứ Điểm a Khoản 2 Điều 76/BLTTHS: Tịch thu để tiêu huỷ 0,23 gam hêrôin đã trích 0,06 gam gửi giám định không hoàn lại; 0,09 gam Methamphetamine gửi giám định toàn bộ không hoàn lại.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định tại Điều 99/BLTTHS và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn B phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
Áp dụng Khoản 1 Điều 194/BLHS, Điểm p Khoản 1 Điều 46/BLHS năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017. Khoản 3 Điều 7/BLHS năm 2015; Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo Lò Văn B 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 03/6/2017.
2. Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 76/BLTTHS tịch thu để tiêu huỷ 0,23 gam hêrôin đã trích 0,06 gam gửi giám định không hoàn lại; 0,09 gam Methamphetamine gửi giám định toàn bộ không hoàn lại. (Vật chứng đã được công an huyện Đ chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ vào ngày 15/8/2017).
3.Về Án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lò Văn Bphải chịu 200.000đ án phí HSST.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (07/9/2017).
Bản án 204/2017/HSST ngày 07/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 204/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về