Bản án 202/2021/HNGĐ-ST ngày 24/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 202/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 280/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 182/2021/QĐXX-ST ngày 31 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 105/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Vũ Thanh H; nơi cư trú: Thôn 10, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Chị Trần Thị T; nơi cư trú: Thôn 10, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 05/7/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, anh Vũ Thanh H (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn số 18 ngày 09 tháng 5 năm 2006 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, sinh hoạt và nuôi dạy con chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Nay anh H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ gia đình không có, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh H yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Trần Thị T.

Về con chung: Anh Vũ Thanh H khai anh và chị Trần Thị T có với nhau 02 con chung là Vũ Hải H, sinh ngày 18 tháng 05 năm 2007 và Vũ Trần YN, sinh ngày 16 tháng 01 năm 2015. Trường hợp ly hôn, anh H và chị T thống nhất thỏa thuận để chị Trần Thị T được trực tiếp nuôi cả hai con chung cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Anh H khai anh và chị Trần Thị T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh H khai anh và chị Trần Thị T có tài sản chung nhưng hai bên tự thỏa thuận phân chia nên anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 29 tháng 7 năm 2021, chị Trần Thị T (bị đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị T khai chị và anh Vũ Thanh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn số 18 ngày 09 tháng 5 năm 2006 tại Ủy ban nhân dân xã Đông Sơn, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Sau cưới, vợ chồng về sinh sống tại xã Đông Sơn, huyện Thủy Nguyên được khoảng 6 năm thì chuyển về thôn 10, xã L, huyện Thủy Nguyên sinh sống đến nay. Quá trình chung sống, vợ chồng vẫn hòa thuận hạnh phúc nhưng khoảng 06 tháng trở lại đây, vợ chồng có bất đồng về sinh hoạt, anh H ít về nhà cộng thêm dự luận về việc anh H có mối quan hệ với người phụ nữ khác dẫn tới tình cảm vợ chồng ngày càng căng thẳng. Sự việc đã được gia đình họp và khuyên giải nhưng không có kết quả. Nay anh H có đơn xin ly hôn, chị T đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ, trường hợp không thành đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết.

Về con chung: Chị T khai chị và anh Vũ Thanh H có với nhau 02 con chung là Vũ Hải H, sinh ngày 18 tháng 05 năm 2007 và Vũ Trần YN, sinh ngày 16 tháng 01 năm 2015. Trường hợp ly hôn, chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả hai con chung cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T khai chị và anh Vũ Thanh H tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị T khai chị và anh Vũ Thanh H có tài sản chung nhưng hai bên tự thỏa thuận phân chia nên chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vẵng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H và chị T. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh H và chị T được ly hôn. Về con chung: Anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị T có 02 con là Vũ Hải H, sinh ngày 18 tháng 05 năm 2007 và Vũ Trần YN, sinh ngày 16 tháng 01 năm 2015. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên và nguyện vọng của con chung, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho chị Trần Thị T trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Vũ Hải H và Vũ Trần YN cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung: Các đương sự thống nhất khai không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Về án phí: Anh Vũ Thanh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là anh Vũ Thanh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là chị Trần Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H và chị T.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh H và chị T được xác lập vào năm 2006 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy bất đồng. Mâu thuẫn vợ chồng anh H và chị T đã được gia đình hòa giải nhưng không thành. Anh H xin ly hôn, quan điểm của chị T cũng thừa nhận vợ chồng có bất đồng về sinh hoạt và ngày càng căng thẳng và đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ. Tuy nhiên, tại các phiên hòa giải do Tòa án triệu tập chị T đều vắng mặt. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa anh H và chị T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho anh H và chị T được ly hôn.

[3] Về con chung: Anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị T có với nhau 02 con là Vũ Hải H, sinh ngày 18 tháng 05 năm 2007 và Vũ Trần YN, sinh ngày 16 tháng 01 năm 2015. Trường hợp ly hôn, chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện chị T hiện đang nuôi cả hai con chung và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Cháu Vũ Hải H có nguyện vọng được mẹ nuôi dưỡng. Vì vậy giao cho chị Trần Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Vũ Hải H và Vũ Trần YN cho đến khi con mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị T thống nhất thỏa thuận tự giao nhận cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị T thống nhất khai có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì anh Vũ Thanh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị T được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị T.

2. Về con chung: Giao cho chị Trần Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Vũ Hải H, sinh ngày 18 tháng 05 năm 2007 và Vũ Trần YN, sinh ngày 16 tháng 01 năm 2015 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Vũ Thanh H phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0015993 ngày 08 tháng 7 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng, anh Vũ Thanh H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Vũ Thanh H, chị Trần Thị T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 202/2021/HNGĐ-ST ngày 24/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:202/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;