TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 202/2019/DS-PT NGÀY 01/08/2019 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ
Vào ngày 01 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 160/2019/TLPT- DS ngày 09 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 12/2019/DS-ST ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 160/2019/QĐPT-DS ngày 15 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Ngọc P, sinh năm 1976; cư trú tại: ấp Bảo Vĩ, xã Tam Giang Tây, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Bị đơn:
1. Ông Ngô Văn D, sinh năm 1960 (có mặt).
2. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1962 (có mặt).
Cùng cư trú tại: ấp Bảo Vĩ, xã Tam Giang Tây, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.
- Người kháng cáo: Ông Ngô Văn D – Là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 01 tháng 11 năm 2018 của chị Trần Ngọc P và quá trình tố tụng tại Tòa án chị P trình bày: Vào năm 2016 và 2017, bà Nguyễn Thị T và ông Ngô Văn D có tham gia các phần hụi gồm hụi 500.000 đồng và hụi 1.000.000 đồng do chị làm chủ, phía bà T đã hốt hết các phần hụi và còn nợ lại chị số tiền 298.500.000 đồng, ngoài ra bà T và ông D còn thiếu nợ tiền hụi củ 20.000.000 đồng, tổng cộng là 318.500.000 đồng. Đến ngày 24/9/2018, bà Nguyễn Thị T làm giấy chốt hụi và thừa nhận thiếu chị P số tiền 318.500.000 đồng, hứa khi nào bán vuông được sẽ thanh toán cho chị. Trên thực tế phía ông D và bà T không có thiện chí trả nợ, vì vậy chị P yêu cầu ông D và bà T có trách nhiệm trả cho chị số nợ 318.500.000 đồng.
Tại bản tự khai ngày 27/12/2018 của bà Nguyễn Thị T và quá trình tố tụng tại Tòa án bà T trình bày: Bà thừa nhận có tham gia chơi hụi như lời khai của chị P trình bày, việc chơi hụi là do bà trực tiếp thực hiện phía ông D không biết, mục đích chơi hụi chủ yếu là để kiếm tiền chi sinh hoạt gia đình. Hiện tại, bà xác định còn thiếu chị P số tiền 318.500.000 đồng và có làm giấy chốt nợ, nay bà chấp nhận trả cho chị P số nợ trên nhưng yêu cầu được trả dần theo khả năng.
Ý kiến của ông Ngô Văn D trình bày: Sự việc tham gia chơi hụi giữa vợ ông là bà Nguyễn Thị T và chị Trần Ngọc P thế nào ông không biết, tuy nhiên ông đồng ý cùng với bà T thanh toán dần khoản nợ trên cho chị P.
Từ nội dung trên, tại Bản án sơ thẩm dân sự số: 12/2019/DS-ST ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển quyết định:
Căn cứ vào Điều 274, Điều 280, Điều 351 và Điều 352 của Bộ luật Dân sự; Điều 147, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Ngọc P đối với ông Ngô Văn D và bà Nguyễn Thị T về việc yêu cầu thanh toán khoản nợ còn thiếu. Buộc Ngô Văn D và bà Nguyễn Thị T trả cho chị Trần Ngọc P số tiền 318.500.000 đồng.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 03-6-2019, ông Ngô Văn D kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm tuyên xử khoản nợ nguyên đơn đòi là nợ riêng của bà T, ông D không có trách nhiệm liên đới trả khoản nợ 318.500.000 đồng cho chị Phượng.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông Ngô Văn D giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu: Về tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng và các đương sự cũng chấp hành đúng với quyền và nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật quy định. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị không chấp nhân yêu cầu kháng cáo của ông Ngô Văn D, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xét kháng cáo của ông Ngô Văn D. Hội đồng xét xử thấy rằng:
[1] Về phạm vi xét xử phúc thẩm: Ông Ngô Văn D kháng cáo đề nghị sửa án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm tuyên xử khoản nợ nguyên đơn đòi là nợ riêng của bà T, ông D không có trách nhiệm liên đới trả khoản nợ 318.500.000 đồng. Đây là phạm vi xét xử phúc thẩm.
[2] Vụ việc yêu cầu của chị Trần Ngọc P được Tòa án nhân huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Sự việc chơi hụi giữa chị P và bà T thực tế có xảy ra, sau khi hốt hụi phía bà T không thực hiện nghĩa vụ đóng hụi chết theo hàng kỳ mở hụi làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chị P. Tuy nhiên, đến ngày 24/9/20178 đôi bên đã có sự thỏa thuận trong việc chốt lại phần nợ thiếu và thống nhất khoản nợ phải trả, không tranh chấp phần hụi tham gia mà chỉ tranh chấp về khoản tiền thiếu chưa thanh toán, nay xảy ra tranh chấp những quy định về thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật Dân sự được áp dụng để giải quyết.
[4] Tại bản khai ngày 27/12/2018 của bà Nguyễn Thị T và các lời khai tiếp theo phía bà T đều thừa nhận còn thiếu nợ của chị P số tiền 318.500.000 đồng và chấp nhận thanh toán. Mặc dù, ông Ngô Văn D là chồng của bà T xác định không biết khoản nợ này nhưng ông vẫn đồng ý cùng bà T thanh toán khoản nợ trên cho chị P. Từ đó, án sơ thẩm tuyên xử buộc ông D có trách nhiệm cùng bà T trả cho chị P số tiền 318.500.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 274, Điều 280, Điều 351 và Điều 352 của Bộ luật Dân sự.
[5] Từ nhận định trên, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Ngô Văn D, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.
[6] Về án phí sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên ông Ngô Văn D và bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 5% trên tổng số tiền phải thanh toán cho chị P: 318.500.000 đồng x 5% = 15.925.000 đồng theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Phần tạm ứng án phí của chị P đã nộp, chị P được nhận lại.
[7] Về án phí phúc thẩm: Ông Ngô Văn D phải chịu 300.000 đồng, đã dự nộp theo biên lai thu số: 0005755 ngày 04/6/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển được chuyển thu đối trừ.
Những quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Ngỗ Văn Dũng. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm: 12/2019/DS-ST ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Ngọc P đối với ông Ngô Văn D và bà Nguyễn Thị T về việc yêu cầu thanh toán khoản nợ còn thiếu.
Buộc Ngô Văn D và bà Nguyễn Thị T trả cho chị Trần Ngọc P số tiền 318.500.000 đồng.
Kể từ khi chị chị Trần Ngọc P có đơn yêu cầu thi hành án nếu ông Ngô Văn D và bà Nguyễn Thị T chậm thực hiện nghĩa vụ trả số tiền trên thì hàng tháng ông Ngô Văn D và bà Nguyễn Thị T còn phải chịu thêm khoản tiền lãi chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
2. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm:
Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch ông Ngô Văn D và bà Nguyễn Thị T phải chịu 15.925.000 đồng.
Chị Trần Ngọc P không phải chịu án phí, đã nộp 7.962.500 đồng theo biên lai thu tiền số 0005465 ngày 06/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển, chị P được nhận lại.
- Án phí phúc thẩm:
Ông Ngô Văn D phải chịu 300.000 đồng, đã dự nộp được chuyển thu đối trừ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 202/2019/DS-PT ngày 01/08/2019 về tranh chấp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự
Số hiệu: | 202/2019/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 01/08/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về