TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 202/2017/HSST NGÀY 19/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 19/9/2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 202/2017/HSST ngày 31 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: Tráng Láo L - Sinh năm 1979;
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản P, xã S, huyện M, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: trồng trọt; Trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Đảng phái, đoàn thể: Không. Con ông: Tráng Láo P (đã chết), con bà Mùa Thị C – Sinh năm 1947. Bị cáo có vợ là Mùa Thị S – Sinh năm 1980 (đã ly hôn), vợ hai là Sồng Thị M - Sinh năm 1978. Bị cáo có 06 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2016.
Tiền án; tiền sự: Không, bị cáo hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ
Công an huyện Mộc Châu từ ngày 22/6/2017 đến nay, có mặt tại phiên toà.
NHẬN THẤY
Bị cáo Tráng Láo L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Hồi 20 giờ 00 phút ngày 21/06/2017, tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ tại tiểu khu 3/2, xã Chiềng Sơn, huyện Mộc Châu phát hiện bắt quả tang Hoàng Văn T, sinh năm 1984 và Đoàn Văn L, sinh năm 1985, đều trú tại; Tiểu khu 3, xã C, huyện M về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ 01 bật lửa ga; 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 01 mảnh nilon màu hồng. Quá trình bắt giữ T và L khai nhận số ma túy của T và L sử dụng là do T và L nhờ Tráng Láo L mua hộ 04 viên hồng phiến với giá 200.000đ. Căn cứ vào hành vi vi phạm và vật chứng thu giữ, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải T và L về Công an huyện Mộc Châu để điều tra, làm rõ.
Mở rộng điều tra, ngày 22/6/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành ra lệnh bắt khẩn cấp đối với Tráng Láo L về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ của L số tiền 20.000 đồng.
Quá trình điều tra, Tráng Láo L, Hoàng Văn T và Đoàn Văn L khai nhận: Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 21/6/2017, T gặp L ở bản Bó Sập, xã Lóng Sập, huyện Mộc Châu, T rủ L đi mua ma túy để cùng sử dụng, L đồng ý. T và L đi bộ đến nhà Tráng Láo L thì gặp L đang ở nhà, T nhờ L đi mua hộ 04 viên ma túy tổng hợp (Hồng phiến) với giá 200.000đ và trả công cho L 20.000đ. L nhận tiền và đi đến bản A Lá, xã Lóng Sập thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết, qua trao đổi L đã mua được của người phụ nữ đó 04 viên ma túy tổng hợp với giá 200.000đ. L cầm 04 viên ma túy tổng hợp về đưa cho T, T nhận ma túy rồi cùng L đi về đến Tiểu khu 3/2, xã Chiềng Sơn, huyện Mộc Châu lấy ra sử dụng thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang.
Tại bản cáo trạng số: 165/CT-VKS ngày 29/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã truy tố bị cáo với nội dung: Truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mộc Châu để xét xử đối với bị can Tráng Láo L về tội: Mua bán trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã phát biểu ý kiến, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Tráng Láo L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy và áp dụng các căn cứ pháp luật để xử phạt đối với bị cáo như sau:
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Xử phạt bị cáo Tráng Láo L từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng của vụ án đề nghị: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 BLHS; khoản 1, 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử của Đoàn Văn L ngày 22/6/2017; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử của Hoàng Văn T ngày 22/6/2017; 01 chiếc bật lửa ga màu xanh, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 01 mảnh nilon màu hồng.
Tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 20.000đ thu giữ của bị cáo.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo;
XÉT THẤY
Tại phiên toà, bị cáo giữ nguyên lời khai của mình như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu.
Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản niêm phong vật chứng, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét đã có đủ căn cứ kết luận. Ngày 21/6/2017 Tráng Láo L đã có hành vi bán trái phép 04 viên ma túy tổng hợp cho Hoàng Văn T với giá 200.000 đồng mục đích để kiếm lời số tiền 20.000đ. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu T tội: Mua bán trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử đã đánh giá các tình tiết, nội dung vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, việc xử lý vật chứng trong vụ án. HĐXX nhận định đánh giá như sau:
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.
Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng, bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo đã có 01 tiền án: Ngày 28/12/2007 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Đã được xóa án tích). Do đó đối với bị cáo cần phải có một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét, sau khi phạm tội bị cáo đã có thái độ T khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó cần áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng, bị cáo là đối tượng nghiện hút chất ma túy, bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, do đó cần xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Hoàng Văn T và Đoàn Văn L là vi phạm hành chính. Ngày 04/8/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng pháp luật, do đó không đề cập đến việc xử lý.
Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo (như bị cáo khai), do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, do đó không có căn cứ để điều tra, xử lý.
Về vật chứng của vụ án:
Đối với số tiền 20.000đ thu giữ của bị cáo là tiền do bị cáo phạm tội mà có do đó cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối với 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử của Đoàn Văn L ngày 22/6/2017; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử của Hoàng Văn T ngày 22/6/2017; 01 chiếc bật lửa ga màu xanh, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 01 mảnh nilon màu hồng không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Bị cáo phải chịu án phí HS - ST theo quy định của pháp luật.
Xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Tráng Láo L đã phạm tội: Mua bán trái phép chất ma tuý.
1. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS.
Xử phạt bị cáo Tráng Láo L 30 (Ba mươi) tháng tù.
Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 22/6/2017.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 41 BLHS; khoản 1, 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 20.000đ (Hai mươi nghìn đồng chẵn) thu giữ của bị cáo.
Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử của Đoàn Văn L ngày 22/6/2017; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử của Hoàng Văn T ngày 22/6/2017; 01 chiếc bật lửa ga màu xanh, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 01 mảnh nilon màu hồng.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 202/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 202/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về